I. LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THỜI PHONG KIẾN
1- Lực lượng vũ trang thời các Vua Hùng
Theo truyền thuyết, nhân dân ta qua hình ảnh Thánh Gióng đã cưỡi ngựa sắt, nhổ cọc tre chống giặc Ân thắng lợi (Phù Đổng thiên vương).
2- Lực lượng vũ trang thời Triệu Đà
Tổ chức kiểm kê hộ khẩu để tuyển lính và thu thuế, năm 111 (trước công nguyên), kháng chiến chống quân Hán.
3- Lực lượng vũ trang thời nhà Ngô
Mỗi sứ quân có quân đội riêng, năm 945-967, Đinh Bộ Lĩnh thắng 12 sứ quân, thống nhất đất nước, tự xưng là Đinh Tiên Hoàng.
4. Lực lượng vũ trang nhà Đinh (968-980)
Sau khi Đinh Bộ Lĩnh liên kết, thần phục và dẹp loạn được các sứ quân khác, chấm dứt nạn cát cứ của 12 sứ quân, thống nhất đất nước (968), mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ giành độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước. Lực lượng vũ trang (quân đội) đã được Đinh Bộ Lĩnh tổ chức lại một cách thống nhất thành lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến tập quyền Đại Cồ Việt.
Toàn quân được tổ chức thành 10 đạo, tương ứng với 10 đạo hành chính trên toàn quốc (mỗi đạo hành chính có một đạo của quân đội). Với nguyên tắc biên chế tổ chức cơ bản như sau:
Mỗi đạo biên chế 10 quân
Mỗi quân biên chế 10 lữ
Mỗi lữ biên chế 10 tốt
Mỗi tốt biên chế 10 người.
Cứ xét theo biểu biên chế này thì Quân đội nhà Đinh có tới 100.000 người, nhưng trên thực tế số dân Việt Nam vào cuối thế kỷ X, nhà Đinh khó có thể tổ chức một đội quân có số lượng đầy đủ như nguyên tắc biên chế này.
Trong Quân đội nhà Đinh có một bộ phận làm nhiệm vụ đặc biệt để bảo vệ triều đình (cơ quan nhà nước phong kiến tối cao), được gọi là quân Điện tiền (lực lượng này có khoảng 2.000 người, là những binh lính được lựa chọn từ những người ưu tú trong toàn quân).
Tổng chỉ huy quân đội được gọi là Thập đạo tướng quân (tướng đứng đầu 10 đạo quân).
Trang bị của Quân đội nhà Đinh chủ yếu là giáo mác, gươm đao, cung tên, những loại vũ khí “lạnh”.
5. Lượng vũ trang thời Tiền Lê (980-1009)
Sau khi Thập đạo tướng quân của nhà Đinh là Lê Hoàn được tôn làm vua thay Đinh Toàn còn quá nhỏ tuổi để đối phó với nguy cơ xâm lược Đại Việt của nhà Tống (Trung Quốc), ông đã có một số thay đổi trong cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang của mình so với quân đội nhà Đinh được chuyển thuộc sang nhà Tiền Lê một cách tự nhiên.
Quân đội Tiền Lê được tổ chức thành hai lực lượng chính là quân Cấm vệ và quân Vương hầu.
Quân Cấm vệ (còn gọi là quân Điện tiền hay quân Túc vệ), là lực lượng thường trực, nòng cốt của Quân đội Tiền Lê và của triều đình. Lực lượng này được biên chế, tổ chức khá hoàn chỉnh từ năm 986, trên cơ sở đổi mới quân Điện tiền của nhà Đinh. Quân Cấm vệ có khoảng 3.000 người, được lựa chọn trong các đơn vị quân đội, hàng năm được bổ sung từ những trai tráng khoẻ mạnh. Quân Cấm vệ gồm có hai bộ phận chính, quân Tuỳ long làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ nơi vua ở và làm việc, quân Tứ sương làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài các vòng thành ở kinh đô Hoa Lư.
Đứng đầu lực lượng quân Cấm vệ là một viên tướng có chức danh Điện tiền chỉ huy sứ, giúp việc cho Điện tiền chỉ huy sứ có Phó Điện tiền chỉ huy sứ, đồng thời trực tiếp chỉ huy bộ phận quân Tứ sương.
Các binh sĩ trong lực lượng Cấm quân đều phải thích trên trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các lực lượng khác trong quân đội.
Quân vương hầu (còn gọi là quân Vương phủ), đây là những đội quân riêng của những người được nhà vua phong tước vương. Lực lượng này được hình thành từ khoảng năm 981-995, khi Lê Hoàn (Lê Đại Hành) phong tước cho một số thái tử, hoàng tử, con nuôi của vua và được cử trấn trị ở các địa phương.
Quân Vương hầu là lực lượng nòng cốt ở các đạo (đơn vị hành chính được tổ chức dưới thời nhà Đinh vẫn được duy trì dưới thời Tiền Lê). Lực lượng này tuy là quân riêng của các vương hầu, song về nguyên tắc vẫn thuộc quyền điều khiển của nhà vua.
Khi có việc chinh chiến, triều đình sẽ hạ chiếu gọi thanh niên đinh tráng bổ sung cho quân đội.
Quân đội Tiền Lê được xây dựng theo phương hướng “thuỷ-bộ hoá”. Cơ động chủ yếu bằng thuyền. Tác chiến chủ yếu dựa trên sông, biển và trên bộ.
Trang bị quân đội nhà Tiền Lê so với quân đội dưới thời nhà Đinh nhìn chung chưa có sự cải tiến và đổi mới gì lớn, “vũ khí lạnh” vẫn chủ yếu như giáo mác, gươm đao, cung nỏ, mộc gỗ, lao tre…
Dưới thời Tiền Lê do nhà nước chú trọng xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông thuỷ bộ, đặc biệt là nhà nước phong kiến Tiền Lê đã cho đào nhiều sông ngòi nối liền các sông từ phía bắc đến Thanh Hoá-Nghệ An, nên quân đội có thể cơ động khá nhanh. Đây được coi là mô hình xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Quân đội Tiền Lê đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ nhất năm 981 của nhà Tống (Trung Quốc), do Lê Hoàn trực tiếp chỉ huy.
6. Lực lượng vũ trang nhà Lý (1010-1225)
Lý Công Uẩn, Điện tiền chỉ huy sứ (người đứng đầu quân cấm vệ nhà Tiền Lê) được tôn lên làm vua thay Lê Long Đĩnh (chết tháng 10-1009), lập nên triều đại nhà Lý kéo dài 215 năm.
Nhà Lý đã tập trung củng cố, xây dựng và phát triển nhà nước quân chủ trung ương tập quyền về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang để sẵn sàng đối phó với nguy cơ bị xâm lược từ phương Bắc.
Quân đội nhà Lý được chuyển thuộc từ quân đội nhà Tiền Lê sang, về cơ bản, tổ chức biên chế không có sự thay đổi lớn. Lực lượng vũ trang của nhà Lý được tổ chức theo nguyên tắc Thân quân là lực lượng thường trực chuyên nghiệp và Sương quân là lực lượng bán chuyên nghiệp.
Lực lượng thường trực chuyên nghiệp được tổ chức thành hai bộ phận: quân Cấm vệ của triều đình và quân Vương hầu của các hoàng tử, thân vương, đại thần ở các lộ, châu, phủ.
Dưới thời Lý, quân Cấm vệ được tổ chức biên chế không thống nhất, tuỳ theo từng đời vua. Quân Cấm vệ có các quân (vệ), biên chế mỗi quân (vệ) có từ 200 đến 500 người. Triều vua Lý Thái Tổ (1010-1028), trong lực lượng quân Cấm vệ có 6 vệ, mỗi vệ biên chế 500 người, triều vua Lý Thái Tông (1028-1054), quân Cấm vệ tổ chức thành 10 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người, còn triều vua Lý Thánh Tông (1054-1072), quân Cấm vệ được tổ chức thành 16 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người…
Đứng đầu quân Cấm vệ là Điện tiền chỉ huy sứ. Căn cứ vào độ tin cậy và sự tài nghệ, quân Cấm vệ được chia làm hai loại: quân Ngự tiền và quân Điện tiền. Quân Ngự tiền làm nhiệm vụ bảo vệ nơi ở của vua, còn quân Điện tiền bảo vệ cấm thành.
Các đơn vị quân Ngự tiền dưới quân được tổ chức thành các đô, hoả, còn các quân (vệ) của lực lượng khác được tổ chức thành các giáp, mỗi giáp biên chế 15 người.
Cũng như quân đội Tiền Lê, quân đội nhà Lý các binh sĩ phục vụ trong lực lượng quân Cấm vệ đều được thích trên trán chữ “Thiên tử quân”. Quân Vương hầu (quân địa phương) theo quy định của triều đình, mỗi nơi chỉ được tổ chức một lực lượng khoảng 500 người, khi có sự biến chiến tranh, lực lượng này được phát triển nhanh chóng về số lượng và đặt dưới sự điều hành thống nhất của nhà vua.
Lực lượng bán chuyên nghiệp được gọi là Sương quân (Tứ sương), được tổ chức ở kinh đô và các địa phương, chủ yếu làm nhiệm vụ phục dịch hay canh gác vòng ngoài các cổng thành. Binh sĩ phục vụ trong lực lượng này luân phiên nhau về làm ruộng để tự túc sau mỗi kỳ hạn được gọi tập trung, thông thường mỗi đợt gọi vào phục dịch và canh gác khoảng 1-2 tháng. Chính sách này dưới thời Lý được gọi là “ngụ binh ư nông” (gửi lính trong dân).
Thời bình nhà Lý chỉ duy trì một lực lượng vũ trang thường trực cần thiết, chú trọng phân hạng dân đinh trong cả nước. Với chính sách này, nhà Lý có thể huy động một lực lượng lớn đinh tráng vào quân đội trong một thời gian ngắn khi có chiến tranh xảy ra.
Quân đội Lý có sự chuyển hoá phân thành quân thuỷ và quân bộ. Lực lượng thuỷ binh được trang bị nhiều chủng loại thuyền có khả năng cơ động và tác chiến dài ngày trên biển, trên sông và cả tác chiến thuỷ-bộ.
Quân bộ được xây dựng theo hướng chính quy, tăng sức cơ động để có thể đối phó được với các đội quân thạo đánh bộ khi chiến tranh xảy ra.
Trong thời bình, quân đội nhà Lý rất được chú trọng huấn luyện cả về kỹ năng chiến đấu và các hình thức chiến đấu cũng như tăng cường trang bị vũ khí cho quân đội.
Trang bị vũ khí trong lực lượng vũ trang dưới thời Lý vẫn là “vũ khí lạnh” song đã có bước phát triển so với quân đội các thời kỳ trước đó, khả năng cơ động cao hơn.
Quân đội Lý đã đánh thắng quân đội Tống ngay trên đất Tống trong chính sách “tiên phát chế nhân” và khi quân Tống xâm lược Đại Việt lần thứ hai (1075-1077), do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy.
1- Lực lượng vũ trang thời các Vua Hùng
Theo truyền thuyết, nhân dân ta qua hình ảnh Thánh Gióng đã cưỡi ngựa sắt, nhổ cọc tre chống giặc Ân thắng lợi (Phù Đổng thiên vương).
2- Lực lượng vũ trang thời Triệu Đà
Tổ chức kiểm kê hộ khẩu để tuyển lính và thu thuế, năm 111 (trước công nguyên), kháng chiến chống quân Hán.
3- Lực lượng vũ trang thời nhà Ngô
Mỗi sứ quân có quân đội riêng, năm 945-967, Đinh Bộ Lĩnh thắng 12 sứ quân, thống nhất đất nước, tự xưng là Đinh Tiên Hoàng.
4. Lực lượng vũ trang nhà Đinh (968-980)
Sau khi Đinh Bộ Lĩnh liên kết, thần phục và dẹp loạn được các sứ quân khác, chấm dứt nạn cát cứ của 12 sứ quân, thống nhất đất nước (968), mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ giành độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước. Lực lượng vũ trang (quân đội) đã được Đinh Bộ Lĩnh tổ chức lại một cách thống nhất thành lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến tập quyền Đại Cồ Việt.
Toàn quân được tổ chức thành 10 đạo, tương ứng với 10 đạo hành chính trên toàn quốc (mỗi đạo hành chính có một đạo của quân đội). Với nguyên tắc biên chế tổ chức cơ bản như sau:
Mỗi đạo biên chế 10 quân
Mỗi quân biên chế 10 lữ
Mỗi lữ biên chế 10 tốt
Mỗi tốt biên chế 10 người.
Cứ xét theo biểu biên chế này thì Quân đội nhà Đinh có tới 100.000 người, nhưng trên thực tế số dân Việt Nam vào cuối thế kỷ X, nhà Đinh khó có thể tổ chức một đội quân có số lượng đầy đủ như nguyên tắc biên chế này.
Trong Quân đội nhà Đinh có một bộ phận làm nhiệm vụ đặc biệt để bảo vệ triều đình (cơ quan nhà nước phong kiến tối cao), được gọi là quân Điện tiền (lực lượng này có khoảng 2.000 người, là những binh lính được lựa chọn từ những người ưu tú trong toàn quân).
Tổng chỉ huy quân đội được gọi là Thập đạo tướng quân (tướng đứng đầu 10 đạo quân).
Trang bị của Quân đội nhà Đinh chủ yếu là giáo mác, gươm đao, cung tên, những loại vũ khí “lạnh”.
5. Lượng vũ trang thời Tiền Lê (980-1009)
Sau khi Thập đạo tướng quân của nhà Đinh là Lê Hoàn được tôn làm vua thay Đinh Toàn còn quá nhỏ tuổi để đối phó với nguy cơ xâm lược Đại Việt của nhà Tống (Trung Quốc), ông đã có một số thay đổi trong cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang của mình so với quân đội nhà Đinh được chuyển thuộc sang nhà Tiền Lê một cách tự nhiên.
Quân đội Tiền Lê được tổ chức thành hai lực lượng chính là quân Cấm vệ và quân Vương hầu.
Quân Cấm vệ (còn gọi là quân Điện tiền hay quân Túc vệ), là lực lượng thường trực, nòng cốt của Quân đội Tiền Lê và của triều đình. Lực lượng này được biên chế, tổ chức khá hoàn chỉnh từ năm 986, trên cơ sở đổi mới quân Điện tiền của nhà Đinh. Quân Cấm vệ có khoảng 3.000 người, được lựa chọn trong các đơn vị quân đội, hàng năm được bổ sung từ những trai tráng khoẻ mạnh. Quân Cấm vệ gồm có hai bộ phận chính, quân Tuỳ long làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ nơi vua ở và làm việc, quân Tứ sương làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài các vòng thành ở kinh đô Hoa Lư.
Đứng đầu lực lượng quân Cấm vệ là một viên tướng có chức danh Điện tiền chỉ huy sứ, giúp việc cho Điện tiền chỉ huy sứ có Phó Điện tiền chỉ huy sứ, đồng thời trực tiếp chỉ huy bộ phận quân Tứ sương.
Các binh sĩ trong lực lượng Cấm quân đều phải thích trên trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các lực lượng khác trong quân đội.
Quân vương hầu (còn gọi là quân Vương phủ), đây là những đội quân riêng của những người được nhà vua phong tước vương. Lực lượng này được hình thành từ khoảng năm 981-995, khi Lê Hoàn (Lê Đại Hành) phong tước cho một số thái tử, hoàng tử, con nuôi của vua và được cử trấn trị ở các địa phương.
Quân Vương hầu là lực lượng nòng cốt ở các đạo (đơn vị hành chính được tổ chức dưới thời nhà Đinh vẫn được duy trì dưới thời Tiền Lê). Lực lượng này tuy là quân riêng của các vương hầu, song về nguyên tắc vẫn thuộc quyền điều khiển của nhà vua.
Khi có việc chinh chiến, triều đình sẽ hạ chiếu gọi thanh niên đinh tráng bổ sung cho quân đội.
Quân đội Tiền Lê được xây dựng theo phương hướng “thuỷ-bộ hoá”. Cơ động chủ yếu bằng thuyền. Tác chiến chủ yếu dựa trên sông, biển và trên bộ.
Trang bị quân đội nhà Tiền Lê so với quân đội dưới thời nhà Đinh nhìn chung chưa có sự cải tiến và đổi mới gì lớn, “vũ khí lạnh” vẫn chủ yếu như giáo mác, gươm đao, cung nỏ, mộc gỗ, lao tre…
Dưới thời Tiền Lê do nhà nước chú trọng xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông thuỷ bộ, đặc biệt là nhà nước phong kiến Tiền Lê đã cho đào nhiều sông ngòi nối liền các sông từ phía bắc đến Thanh Hoá-Nghệ An, nên quân đội có thể cơ động khá nhanh. Đây được coi là mô hình xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Quân đội Tiền Lê đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ nhất năm 981 của nhà Tống (Trung Quốc), do Lê Hoàn trực tiếp chỉ huy.
6. Lực lượng vũ trang nhà Lý (1010-1225)
Lý Công Uẩn, Điện tiền chỉ huy sứ (người đứng đầu quân cấm vệ nhà Tiền Lê) được tôn lên làm vua thay Lê Long Đĩnh (chết tháng 10-1009), lập nên triều đại nhà Lý kéo dài 215 năm.
Nhà Lý đã tập trung củng cố, xây dựng và phát triển nhà nước quân chủ trung ương tập quyền về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang để sẵn sàng đối phó với nguy cơ bị xâm lược từ phương Bắc.
Quân đội nhà Lý được chuyển thuộc từ quân đội nhà Tiền Lê sang, về cơ bản, tổ chức biên chế không có sự thay đổi lớn. Lực lượng vũ trang của nhà Lý được tổ chức theo nguyên tắc Thân quân là lực lượng thường trực chuyên nghiệp và Sương quân là lực lượng bán chuyên nghiệp.
Lực lượng thường trực chuyên nghiệp được tổ chức thành hai bộ phận: quân Cấm vệ của triều đình và quân Vương hầu của các hoàng tử, thân vương, đại thần ở các lộ, châu, phủ.
Dưới thời Lý, quân Cấm vệ được tổ chức biên chế không thống nhất, tuỳ theo từng đời vua. Quân Cấm vệ có các quân (vệ), biên chế mỗi quân (vệ) có từ 200 đến 500 người. Triều vua Lý Thái Tổ (1010-1028), trong lực lượng quân Cấm vệ có 6 vệ, mỗi vệ biên chế 500 người, triều vua Lý Thái Tông (1028-1054), quân Cấm vệ tổ chức thành 10 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người, còn triều vua Lý Thánh Tông (1054-1072), quân Cấm vệ được tổ chức thành 16 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người…
Đứng đầu quân Cấm vệ là Điện tiền chỉ huy sứ. Căn cứ vào độ tin cậy và sự tài nghệ, quân Cấm vệ được chia làm hai loại: quân Ngự tiền và quân Điện tiền. Quân Ngự tiền làm nhiệm vụ bảo vệ nơi ở của vua, còn quân Điện tiền bảo vệ cấm thành.
Các đơn vị quân Ngự tiền dưới quân được tổ chức thành các đô, hoả, còn các quân (vệ) của lực lượng khác được tổ chức thành các giáp, mỗi giáp biên chế 15 người.
Cũng như quân đội Tiền Lê, quân đội nhà Lý các binh sĩ phục vụ trong lực lượng quân Cấm vệ đều được thích trên trán chữ “Thiên tử quân”. Quân Vương hầu (quân địa phương) theo quy định của triều đình, mỗi nơi chỉ được tổ chức một lực lượng khoảng 500 người, khi có sự biến chiến tranh, lực lượng này được phát triển nhanh chóng về số lượng và đặt dưới sự điều hành thống nhất của nhà vua.
Lực lượng bán chuyên nghiệp được gọi là Sương quân (Tứ sương), được tổ chức ở kinh đô và các địa phương, chủ yếu làm nhiệm vụ phục dịch hay canh gác vòng ngoài các cổng thành. Binh sĩ phục vụ trong lực lượng này luân phiên nhau về làm ruộng để tự túc sau mỗi kỳ hạn được gọi tập trung, thông thường mỗi đợt gọi vào phục dịch và canh gác khoảng 1-2 tháng. Chính sách này dưới thời Lý được gọi là “ngụ binh ư nông” (gửi lính trong dân).
Thời bình nhà Lý chỉ duy trì một lực lượng vũ trang thường trực cần thiết, chú trọng phân hạng dân đinh trong cả nước. Với chính sách này, nhà Lý có thể huy động một lực lượng lớn đinh tráng vào quân đội trong một thời gian ngắn khi có chiến tranh xảy ra.
Quân đội Lý có sự chuyển hoá phân thành quân thuỷ và quân bộ. Lực lượng thuỷ binh được trang bị nhiều chủng loại thuyền có khả năng cơ động và tác chiến dài ngày trên biển, trên sông và cả tác chiến thuỷ-bộ.
Quân bộ được xây dựng theo hướng chính quy, tăng sức cơ động để có thể đối phó được với các đội quân thạo đánh bộ khi chiến tranh xảy ra.
Trong thời bình, quân đội nhà Lý rất được chú trọng huấn luyện cả về kỹ năng chiến đấu và các hình thức chiến đấu cũng như tăng cường trang bị vũ khí cho quân đội.
Trang bị vũ khí trong lực lượng vũ trang dưới thời Lý vẫn là “vũ khí lạnh” song đã có bước phát triển so với quân đội các thời kỳ trước đó, khả năng cơ động cao hơn.
Quân đội Lý đã đánh thắng quân đội Tống ngay trên đất Tống trong chính sách “tiên phát chế nhân” và khi quân Tống xâm lược Đại Việt lần thứ hai (1075-1077), do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy.