II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TIỀM NĂNG CỦA VÙNG BIỂN VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò của biển Việt Nam
Biển có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng đối với các quốc gia có biển nói riêng và của thế giới nói chung. Từ trước đến nay, biển luôn là vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Một số nước và vùng lãnh thổ đã lợi dụng thế mạnh về biển đạt trình độ phát triển kinh tế rất cao. Do tầm quan trọng của biển, từ lâu cuộc chạy đua trong sự phát triển kinh tế biển cũng như triển khai lực lượng quân sự trên biển và sự tranh chấp trên biển diễn ra rất gay gắt.
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là "Thế kỷ của đại dương", bởi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài ba thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và khống chế biển. Riêng trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, các nước, nhất là các nước lớn đều có thiên hướng bảo tồn tài nguyên trên đất liền và vùng biển của mình, vươn ra điều tra, khai thác tài nguyên trên đại dương.
Do ý nghĩa và vai trò quan trọng của biển nên sự hợp tác quốc tế về biển cũng không ngừng được mở rộng, bao gồm việc xây dựng khuôn khổ pháp lý mà tập trung nhất là Công ước biển năm 1982 của Liên Hợp quốc, hình thành các cơ chế, tổ chức hợp tác toàn cầu và khu vực.
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đôi với khu vực và trên thế giới. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Chính vì vậy, việc xây dựng, quản lý, phát triển và bảo vệ quyền lợi biển là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với việc gìn giữ toàn vẹn chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mờ rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Biển Đông là một biển lớn của Thái Bình Dương, có diện tích khoảng 3.448.000km2, được bao bọc bởi 10 nước và vùng lãnh thổ (Việt Nam, Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Brunây, Thái Lan, Campuchia, Xingapo và Đài Loan); là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, có vị trí quan trọng đôi với cả khu vực và thế giới.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu dân của các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực này.
Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc tế, là tuyến hàng hải quan trọng thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh mẽ trên Biển Đông. Cho nên, Biển Đông được coi là con đường huyết mạch chiến lược về giao thông thương mại và vận chuyển quân sự quốc tế. Trong 10 tuyến đường biển quốc tế lớn nhất thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông. Trong lịch sử, Biển Đông nhiều lần là trọng điểm của những cuộc tranh chấp quốc tế gay go, quyết liệt. Ngay từ thế kỷ XIV - XV, Tây Ban Nha đã tới đây tranh giành những vùng đất màu mỡ ở Philíppin, Inđônêxia. Đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII là đế quốc Hà Lan; thế kỷ XIX, XX là Pháp, Nhật, Mỹ lần lượt bành trướng, xâm chiếm hoặc gây chiến tranh chống một số nước quanh khu vực Biển Đông.
Do những tồn tại của lịch sử để lại hơn một trăm năm nay, cùng với sự phát triển của luật pháp quốc tế về biển và đặc điểm vị trí địa lý của Biển Đông, nên giữa các nước trong khu vực còn tồn tại một số vấn đề tranh chấp hoặc chưa thống nhất cần được giải quyết trên các vùng biến và thềm lục địa. Đặc biệt, từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, cuộc chạy đua tìm kiếm, khai thác dầu lửa và các nguồn nguyên liệu chiến lược ở Biển Đông càng làm cho vấn đề tranh chấp chủ quyền ở đây thêm gay gắt và phức tạp.
Biển Đông có vị trí địa kinh tế và chính trị quan trọng như vậy, nên từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu km2. Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260km ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam, trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế giới), không một nơi nào trên đất nước ta lại cách xa biển hơn 500km. Ven bờ có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các loại, chủ yếu nằm ở vịnh Bắc Bộ, với diện tích khoảng 1.700km2, trong đó, có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100km2, 23 đảo có diện tích lớn hơn 10km2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1km2 và khoảng trên 1.400 đảo chưa có tên. Vì vậy, biển đã gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước.
Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc "cầu nối" cực kỳ quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Biển và vùng ven biển là cửa mở lớn, là "mặt tiền" quan trọng của đất nước để thông ra Thái Bình Dương và mở cửa mạnh mẽ ra nước ngoài. So với các vùng khác trong nội địa, vùng ven biển gồm hầu hết các đô thị lớn có kết cấu hạ tầng khá tốt; có các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước đang được đầu tư phát triển mạnh; có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có thể trở thành mũi nhọn để phát triển; có nguồn lao động dồi dào và hệ thống giao thông đường sắt, đường thủy, đường bộ thuận tiện; là môi trường hết sức thuận lợi để tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài, từ đó lan toả ra các vùng khác trong nội địa. Có thể nói, vùng ven biển là vùng có nhiều lợi thế hơn hẳn các vùng khác để phát triển kinh tế nhanh.
Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hoá xuất, nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, đồng thời thu hút cả vùng Tây Nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia. Hiện nay, các nước trong khu vực đang tích cực khởi động chương trình phát triển Tiểu vùng Mê Công, ta và Trung Quốc đang hợp tác xây dựng và thực hiện chương trình Vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ, coi đó là một cực tăng trưởng mới trong khuôn khổ của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Chính vì vậy, trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước.