Cựu binh Sư đoàn 341 Đặng Hữu Đào làm việc tại Ban tuyên giáo Hội cựu chiến binh TP.Đà Nẵng. Ảnh: Nhiệt Băng
Đại tá, cựu binh Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) Đặng Hữu Hào (SN 1955) giờ là Trưởng ban tuyên giáo Hội cựu chiến binh TP.Đà Nẵng. Công việc hiện tại của ông cũng bề bộn như những trang hồi ức hào hùng về cuộc tiến quân “thần tốc” giải phóng Sài Gòn năm xưa…
Hy sinh khi chưa kịp chia nhau vắt cơm “hứa hẹn”
40 năm lẳng lặng trôi qua, nhưng từng chặng đường, từng kỷ niệm đắng đót, ngọt bùi về cuộc hành quân "thần tốc" vào Dinh Độc lập theo hướng Đông (một trong 4 mũi tác chiến của quân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh) vẫn còn vẹn nguyên trong tâm khảm ông Hào. Năm 1973, ông Hào công tác tại Sư đoàn 341, đóng quân tại huyện Bố Trạch (tỉnh Quảng Bình). Đầu năm 1975, tình hình cách mạng miền Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sư đoàn 341 nhận được lệnh hành quân cơ giới theo đường Hồ Chí Minh, qua ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia vào chiến trường. “Để tránh bị địch phát hiện, đêm chúng tôi hành quân, ngày nghỉ qua từng binh trạm, mỗi binh trạm cách nhau từ 80 - 100km”, ông Hào nhớ lại.
Sau gần 1 tháng hành quân, đầu tháng 3.1975, sau khi vượt qua sông Bé, Sư đoàn 341 vào đến miền đông Nam Bộ. Chưa kịp nghỉ ngơi thì đã giáp mặt địch, thế là cả Trung đoàn 270 của cựu binh Hào liền lao vào rừng caosu bên trục đường 20 (thuộc Định Quán, từ Sài Gòn lên Lâm Đồng) chiến đấu. Bị đánh động, địch lùi vào rừng sâu, phân vùng và lập trận địa pháo. Ngay trận đánh đầu tiên, hàng chục chiến sĩ của ta đã hy sinh và bị thương. Phía địch cũng bị tổn thất nặng nề và tháo chạy về Sài Gòn. Lúc này, Trung đoàn 270 tiếp tục nhận được lệnh chuẩn bị lực lượng đánh vào thị xã Xuân Lộc. Khoảng 4h sáng vào vị trí chuẩn bị chiến đấu, Trung đoàn 270 bắt đầu tiếp cận “cánh cửa thép” phía Đông mà địch đang cố thủ tại mặt trận Xuân Lộc.
“Tôi mãi nhớ mãi một người bạn lính là đồng chí Soạn trong tiểu đội của tôi. Đồng chí mang B41 cùng với tôi đào hầm ẩn nấp, sau khi đã hành quân bí mật vào vị trí chuẩn bị chiến đấu. Chiều hôm trước, hậu cần cấp cho hai người hai vắt cơm. Tôi và đồng chí Soạn bàn nhau, bây giờ đã gần sáng, hai ta ăn một vắt cơm của đồng chí Soạn, để vắt còn lại trưa hoặc chiều ăn. Sáng hôm đó, chúng tôi nhận lệnh xung phong tấn công vào cửa mở phía Bắc thị xã Xuân Lộc. Lúc này, địch tấn công rất ác liệt. Muốn vào thị xã Xuân Lộc buộc phải qua một bãi trảng (bãi trống) khá rộng bên ngoài. Ai tiến lên đều bị hỏa lực của địch gây sát thương. Đồng chí Soạn anh dũng lao lên khỏi hàng rào thì trúng một quả đạn pháo. Các y tá cố gắng bò lên băng bó, nhưng vết thương quá nặng nên đồng chí Soạn đã hy sinh. Đồng chí ra đi khi chúng tôi chưa kịp ăn cùng nhau vắt cơm hứa hẹn”, ông Hào bùi ngùi kể lại.
Đánh ròng rã cả buổi sáng, Trung đoàn 270 cũng không thể tiến lên được. Đến trưa 9.4.1975, trong trận mở màn đánh vào thị xã Xuân Lộc, dù được tăng cường pháo binh nhưng Trung đoàn 270, từ đại đội đến tiểu đội đều bị tổn thất lớn. “Trước tình hình này, chúng tôi phải lui ra ngoài đào hầm ẩn nấp. Nắm được tình hình, Thiệu ngay lập tức kêu gọi Mỹ dội bom tấn công bên ngoài bụi rậm, chỗ hầm ẩn nấp của chúng tôi, nhưng lúc này Mỹ không can thiệp được nữa. Sau đó, lực lượng ta liên tiếp tục dùng pháo bắn vào thị xã Xuân Lộc. Đến ngày 20.4.1975, địch không chịu nổi nữa thì rút chạy”, ông Hào kể.
Trong trận đánh ác liệt này, ta phải giằng co cả 10 ngày trời với địch mới giành được thị xã. Ngày 27.4.1975, đoàn quân tiếp tục đánh vào chi khu Trảng Bom. Tại cứ điểm này, địch cố thủ một lực lượng dày đặc và chống trả quyết liệt. Ông Hào nhớ lại: Sau gần 1 ngày chiến đấu ta đã làm chủ chi khu, lúc này, pháo của địch từ Biên Hòa dội về chi khu Trảng Bom. Để tránh thương vong cho đơn vị, đơn vị cử tôi và 9 đồng chí nữa chiều tối hôm đó ở lại thu gom thương binh, băng bó, bảo vệ chi khu để đơn vị rút ra ngoài. Ngày hôm sau, đơn vị vào cùng chúng tôi tiếp tục hành quân theo trục đường 1 đến Hố Nai, rồi lên Biên Hòa. Lúc này, địch đã bắt đầu suy yếu.
Tuy nhiên, ngày 28.4.1975, khi lực lượng ta đến Hố Nai thì gặp phải một trận pháo địch liên tục dội xuống hòng tiêu diệt ta. Lúc đó, tại sân bay Biên Hòa, địch chống cự quyết liệt khiến quân ta không thể tiến vào Dinh Độc Lập. Chiều 30.4.1975, chúng tôi còn phải đánh một trận tại căn cứ bên ngoài sân bay Biên Hòa, tóm gọn chỉ huy của địch. Khi quân ta vào bắt tên thiếu tá chỉ huy căn cứ thì tên này vẫn không tin Sài Gòn thất thủ, đầu hàng. Cùng với các mũi tiến công vào thủ phủ Sài Gòn, ngày 1.5.1975, đơn vị thẳng tiến về Dinh Độc Lập, đóng giữ tòa nhà phía sau dinh độc lập.
[size]
Như… “người rừng về phố”!
Biền biệt ở chốn rừng sâu, sống và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn vật chất, ngày tiến về Dinh Độc Lập, giải phóng Sài Gòn, những người lính như cựu binh Hào hoàn toàn lạ lẫm với mọi thứ xung quanh mình. Thậm chí, do trót mang trong mình phản xạ có điều kiện trước quân địch tự bao giờ, nên đụng cái gì ông cũng tò mò, ngờ nghi! Ông Hào bảo, giờ nghĩ lại thấy thật buồn cười, đời lính thật khổ mà vui cũng nhờ đó.
“Ở rừng dùng củi đuốc hoài có biết cái bóng đèn điện là gì, thấy người ta bật chớp chớp nháy nháy rồi sang bừng lên là giật mình, sợ nó… nổ. Vào “toa lét” ở tòa án nhân dân tối cao của địch mà không hình dung nổi đó là thứ gì. Thử bấm cái nút một phát thì nước chảy xòa, nghĩ là hư hỏng cái gì rồi nên “quấn gà” không biết làm sao. Vào hội trường tòa án lại thấy cái cánh quạt quay vù vù, cũng nghĩ là chong chóng bom địch cài nên chúng tôi bỏ chạy…”, ông Hào vừa kể vừa cười thẹn.
Sau giải phóng, năm 1976, ông Hào ở lại Sài Gòn làm công tác quân quản được một thời gian rồi được cử đi học ở Học viện Chính trị. Ra trường, ông về công tác gần 20 năm tại Phòng tuyên huấn Quân khu 5. Năm 2012, ông được Hội Cựu chiến binh mời về làm Trưởng ban tuyên giáo của Hội. Hỏi đã đến tuổi về hưu sao ông vẫn chưa “chịu” nghỉ ngơi, ông chia sẻ: “Thấy bà con xóm giềng nhà mình lớn tuổi hơn mình mà họ còn làm “rầm rầm”, công việc hiện tại rất bề bộn, mỗi ngày phải xử lý khá nhiều việc nhưng còn sức khỏe thì tôi vẫn làm, vẫn còn phục vụ”.
"Ngày kỷ niệm 40 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam đã cận kề, với cương vị là người lính từng tham gia cuộc tiến công, ông hoài niệm điều gì nhất?". “Mùa khô trên đường Trường Sơn bụi đỏ mù mịt và hình ảnh mấy chị em lính xung phong gác trực trên đường. Chúng tôi hành quân cả ngày ròng không thấy nhà cửa, gặp mấy chị em thấy vui và thương lắm, có bao nhiêu lương khô, thức ăn, chúng tôi ném lại cho chị em hết”, ông Hào tâm sự.[/size]
40 năm lẳng lặng trôi qua, nhưng từng chặng đường, từng kỷ niệm đắng đót, ngọt bùi về cuộc hành quân "thần tốc" vào Dinh Độc lập theo hướng Đông (một trong 4 mũi tác chiến của quân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh) vẫn còn vẹn nguyên trong tâm khảm ông Hào. Năm 1973, ông Hào công tác tại Sư đoàn 341, đóng quân tại huyện Bố Trạch (tỉnh Quảng Bình). Đầu năm 1975, tình hình cách mạng miền Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sư đoàn 341 nhận được lệnh hành quân cơ giới theo đường Hồ Chí Minh, qua ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia vào chiến trường. “Để tránh bị địch phát hiện, đêm chúng tôi hành quân, ngày nghỉ qua từng binh trạm, mỗi binh trạm cách nhau từ 80 - 100km”, ông Hào nhớ lại.
Sau gần 1 tháng hành quân, đầu tháng 3.1975, sau khi vượt qua sông Bé, Sư đoàn 341 vào đến miền đông Nam Bộ. Chưa kịp nghỉ ngơi thì đã giáp mặt địch, thế là cả Trung đoàn 270 của cựu binh Hào liền lao vào rừng caosu bên trục đường 20 (thuộc Định Quán, từ Sài Gòn lên Lâm Đồng) chiến đấu. Bị đánh động, địch lùi vào rừng sâu, phân vùng và lập trận địa pháo. Ngay trận đánh đầu tiên, hàng chục chiến sĩ của ta đã hy sinh và bị thương. Phía địch cũng bị tổn thất nặng nề và tháo chạy về Sài Gòn. Lúc này, Trung đoàn 270 tiếp tục nhận được lệnh chuẩn bị lực lượng đánh vào thị xã Xuân Lộc. Khoảng 4h sáng vào vị trí chuẩn bị chiến đấu, Trung đoàn 270 bắt đầu tiếp cận “cánh cửa thép” phía Đông mà địch đang cố thủ tại mặt trận Xuân Lộc.
“Tôi mãi nhớ mãi một người bạn lính là đồng chí Soạn trong tiểu đội của tôi. Đồng chí mang B41 cùng với tôi đào hầm ẩn nấp, sau khi đã hành quân bí mật vào vị trí chuẩn bị chiến đấu. Chiều hôm trước, hậu cần cấp cho hai người hai vắt cơm. Tôi và đồng chí Soạn bàn nhau, bây giờ đã gần sáng, hai ta ăn một vắt cơm của đồng chí Soạn, để vắt còn lại trưa hoặc chiều ăn. Sáng hôm đó, chúng tôi nhận lệnh xung phong tấn công vào cửa mở phía Bắc thị xã Xuân Lộc. Lúc này, địch tấn công rất ác liệt. Muốn vào thị xã Xuân Lộc buộc phải qua một bãi trảng (bãi trống) khá rộng bên ngoài. Ai tiến lên đều bị hỏa lực của địch gây sát thương. Đồng chí Soạn anh dũng lao lên khỏi hàng rào thì trúng một quả đạn pháo. Các y tá cố gắng bò lên băng bó, nhưng vết thương quá nặng nên đồng chí Soạn đã hy sinh. Đồng chí ra đi khi chúng tôi chưa kịp ăn cùng nhau vắt cơm hứa hẹn”, ông Hào bùi ngùi kể lại.
Đánh ròng rã cả buổi sáng, Trung đoàn 270 cũng không thể tiến lên được. Đến trưa 9.4.1975, trong trận mở màn đánh vào thị xã Xuân Lộc, dù được tăng cường pháo binh nhưng Trung đoàn 270, từ đại đội đến tiểu đội đều bị tổn thất lớn. “Trước tình hình này, chúng tôi phải lui ra ngoài đào hầm ẩn nấp. Nắm được tình hình, Thiệu ngay lập tức kêu gọi Mỹ dội bom tấn công bên ngoài bụi rậm, chỗ hầm ẩn nấp của chúng tôi, nhưng lúc này Mỹ không can thiệp được nữa. Sau đó, lực lượng ta liên tiếp tục dùng pháo bắn vào thị xã Xuân Lộc. Đến ngày 20.4.1975, địch không chịu nổi nữa thì rút chạy”, ông Hào kể.
Trong trận đánh ác liệt này, ta phải giằng co cả 10 ngày trời với địch mới giành được thị xã. Ngày 27.4.1975, đoàn quân tiếp tục đánh vào chi khu Trảng Bom. Tại cứ điểm này, địch cố thủ một lực lượng dày đặc và chống trả quyết liệt. Ông Hào nhớ lại: Sau gần 1 ngày chiến đấu ta đã làm chủ chi khu, lúc này, pháo của địch từ Biên Hòa dội về chi khu Trảng Bom. Để tránh thương vong cho đơn vị, đơn vị cử tôi và 9 đồng chí nữa chiều tối hôm đó ở lại thu gom thương binh, băng bó, bảo vệ chi khu để đơn vị rút ra ngoài. Ngày hôm sau, đơn vị vào cùng chúng tôi tiếp tục hành quân theo trục đường 1 đến Hố Nai, rồi lên Biên Hòa. Lúc này, địch đã bắt đầu suy yếu.
Tuy nhiên, ngày 28.4.1975, khi lực lượng ta đến Hố Nai thì gặp phải một trận pháo địch liên tục dội xuống hòng tiêu diệt ta. Lúc đó, tại sân bay Biên Hòa, địch chống cự quyết liệt khiến quân ta không thể tiến vào Dinh Độc Lập. Chiều 30.4.1975, chúng tôi còn phải đánh một trận tại căn cứ bên ngoài sân bay Biên Hòa, tóm gọn chỉ huy của địch. Khi quân ta vào bắt tên thiếu tá chỉ huy căn cứ thì tên này vẫn không tin Sài Gòn thất thủ, đầu hàng. Cùng với các mũi tiến công vào thủ phủ Sài Gòn, ngày 1.5.1975, đơn vị thẳng tiến về Dinh Độc Lập, đóng giữ tòa nhà phía sau dinh độc lập.
Đặng Hữu Hào (phải) cùng đồng đội thời làm công tác quân quản Sài Gòn năm 1975. |
Như… “người rừng về phố”!
Biền biệt ở chốn rừng sâu, sống và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn vật chất, ngày tiến về Dinh Độc Lập, giải phóng Sài Gòn, những người lính như cựu binh Hào hoàn toàn lạ lẫm với mọi thứ xung quanh mình. Thậm chí, do trót mang trong mình phản xạ có điều kiện trước quân địch tự bao giờ, nên đụng cái gì ông cũng tò mò, ngờ nghi! Ông Hào bảo, giờ nghĩ lại thấy thật buồn cười, đời lính thật khổ mà vui cũng nhờ đó.
“Ở rừng dùng củi đuốc hoài có biết cái bóng đèn điện là gì, thấy người ta bật chớp chớp nháy nháy rồi sang bừng lên là giật mình, sợ nó… nổ. Vào “toa lét” ở tòa án nhân dân tối cao của địch mà không hình dung nổi đó là thứ gì. Thử bấm cái nút một phát thì nước chảy xòa, nghĩ là hư hỏng cái gì rồi nên “quấn gà” không biết làm sao. Vào hội trường tòa án lại thấy cái cánh quạt quay vù vù, cũng nghĩ là chong chóng bom địch cài nên chúng tôi bỏ chạy…”, ông Hào vừa kể vừa cười thẹn.
Sau giải phóng, năm 1976, ông Hào ở lại Sài Gòn làm công tác quân quản được một thời gian rồi được cử đi học ở Học viện Chính trị. Ra trường, ông về công tác gần 20 năm tại Phòng tuyên huấn Quân khu 5. Năm 2012, ông được Hội Cựu chiến binh mời về làm Trưởng ban tuyên giáo của Hội. Hỏi đã đến tuổi về hưu sao ông vẫn chưa “chịu” nghỉ ngơi, ông chia sẻ: “Thấy bà con xóm giềng nhà mình lớn tuổi hơn mình mà họ còn làm “rầm rầm”, công việc hiện tại rất bề bộn, mỗi ngày phải xử lý khá nhiều việc nhưng còn sức khỏe thì tôi vẫn làm, vẫn còn phục vụ”.
"Ngày kỷ niệm 40 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam đã cận kề, với cương vị là người lính từng tham gia cuộc tiến công, ông hoài niệm điều gì nhất?". “Mùa khô trên đường Trường Sơn bụi đỏ mù mịt và hình ảnh mấy chị em lính xung phong gác trực trên đường. Chúng tôi hành quân cả ngày ròng không thấy nhà cửa, gặp mấy chị em thấy vui và thương lắm, có bao nhiêu lương khô, thức ăn, chúng tôi ném lại cho chị em hết”, ông Hào tâm sự.[/size]