Thịt là “nhục”

Diễn đàn Quân sử Việt Nam

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Diễn đàn Quân sử Việt Nam

Nơi tìm kiếm thông tin Liệt sĩ và người thân thất lạc trong chiến tranh


    Thịt là “nhục”

    chinhtrivn
    chinhtrivn
    Học viên
    Học viên

    Tổng số bài gửi : 6
    Join date : 10/12/2013

     Thịt là “nhục” Empty Thịt là “nhục”

    Bài gửi by chinhtrivn Thu Apr 10, 2014 6:20 pm

    Thịt là “nhục”

    Sau công cuộc cải tạo tư thương của chính phủ, gia đình tôi rơi vào cảnh bần hàn. Cha mẹ tôi đều tần tảo chiụ khó, vậy mà không sao xoay xở đủ cho mười cái “tầu há mồm” đang tuổi ăn tuổi lớn. Bữa cơm thường rất đạm bạc, thức ăn đa phần là thực vật. Thỉnh thoảng cũng có vài miếng thịt mỏng ghé qua cái mâm đồng lúc nào cũng bóng loáng với bộ bát đĩa có hình mấy cô tiên bằng sứ của Nhật rất đẹp. Những lúc ấy, chúng tôi sáng cả mắt. Nhưng “tiểu đội anh em” chúng tôi kỷ luật lắm. Loáng một cái, ông anh cả đã chia bình quân mỗi người được mấy miếng. Nếu có số lẻ, ưu tiên từ em út trở lên. Cứ thế mà thực hiện. Tôi phục sát đất phép tính nhẩm của anh, chả trách anh luôn là một học sinh giỏi toán.

    Để lấp phần nào khoảng thiếu thịt trong dạ dày của chúng tôi, cha tôi thường cho tráng miệng thêm một món ăn tinh thần. Người nói:

    - Các con có biết không? Thịt chữ nho là “nhục “ . Các cụ ngày xưa thâm thúy lắm. Miếng thịt là miếng “nhục”, các con phải biết tự trọng, không thèm.

    Tôi còn bé lắm, chưa hiểu hết sự thâm thúy của các cụ, cho nên hễ bữa cơm có miếng “nhục” là không sao kiềm chế nổi sự hân hoan.

    Cứ tưởng miếng “nhục” ấy chỉ ám ảnh tôi trong những năm thơ ấu, nhưng không phải vậy. Lớn lên, đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, đi sơ tán, vào đại học, rồi đi bộ đội, miếng “nhục” vẫn hành hạ trong tâm trí của cả một thế hệ.

    Hồi còn huấn luyện tân binh ngoài Bắc, bữa cơm thường có thịt nhưng quá ít. Anh nuôi chia đại khái theo mâm. Tiểu đội trưởng của tôi không có kỹ năng như anh trai tôi, thành thử bao giờ cũng có những chiến sĩ chịu hy sinh quyền lợi trước anh em. Tuy thế, chúng tôi đa phần đều có học, thừa lịch sự. Người nọ thường chờ người kia hạ đũa, trước khi đến lượt mình. Bữa ăn dềnh dang, người này đi một nước, người kia đi một nước như đánh cờ, rất mệt. Tôi lĩnh hội sâu sắc bài học của cha thời thơ ấu, thành thử thường chịu thua thiệt trong những ván cờ ẩm thực ấy.

    Nhưng tôi ngộ ra rằng, sau những bữa ăn tươi, thường vào ngày lễ, tết, thịt dồi dào, sức khỏe được cải thiện trông thấy, tập tành khiêng vác súng đạn không biết mệt. Nếu muốn tồn tại, có sức để vượt qua rèn luyện cam go và trận mạc, không thể cứ ngồi chờ hậu cần cung cấp được chăng hay chớ. Lập tức, lính tráng cải thiện tình hình bằng tất cả vốn tự có. Khi là bộ quần áo, đổi lấy con gà, con vịt của dân. Lúc thì mò cua bắt ốc, tát cá vv thêm vào khẩu phần quá thiếu chất “nhục” . Hậu quả thái quá của tinh thần tự túc đó, tiểu đội của tôi, chẳng mấy thằng có đủ hai bộ quần áo dài tử tế.

    Dạo qua A sầu, A Lưới, chúng tôi đem một bộ quần áo rung rúc vào một bản dân tộc đổi gà.

    Rút cái tẩu chung thân phả khói khét lẹt ra khỏi miệng, một cụ già Vân Kiều nói:

    - Một bộ quần áo thơm “mùi chính phủ” lấy một gà “hết lớn”

    ( Rất khó nghe, dịch ra âm phổ thông là như vậy)

    Ông ta ngửi ngửi bộ quần áo, chê cũ, lắc đầu. Vô cùng thất vọng, tôi cố giải thích rằng áo quần để trong balo lâu ngày, ẩm mốc nên hết “mùi chính phủ”.

    Sau một hồi thuyết phục, chúng tôi cũng đem được về một con gà “hết lớn” cỡ nửa cân.

    Năm 1972, đánh nhau ở Quảng Trị, hậu cần càng khó khăn. Suất ăn của mỗi chiến sĩ chỉ một nắm cơm với chút muối rang. Cứ thế này, không chết vì bom đạn cũng kiệt sức mất. Ngoài nhiệm vụ giữ chốt, lúc yên một chút, anh em lại đi kiếm ăn. Một lần sục sạo, chúng tôi phát hiện ra xác của hai người lính Cộng Hòa đang bị phân hủy, xú khí nồng nặc nằm trước cửa một căn hầm. Dứt khoát trong hầm phải có thứ gì đó. Nhắm mắt bịt mũi, chúng tôi lôi hai cái xác sang một bên chui vào. Đúng là một mỏ vàng. Hai ba lô hơn chục hộp thịt.

    Đêm ấy cậu liên lạc mò ra chốt thấy tiểu đội đang “liên hoan”, tròn xoe mắt. Được thể một cậu bốc phét:

    - Đêm qua chúng tao mò sang chốt của địch, lấy được hai ba lô thịt hộp đem về.

    Hôm sau, tham mưu tiểu đoàn ra lệnh cho chúng tôi về báo cáo vị trí bố phòng của địch vì nghe nói chúng tôi đã vượt qua được chiến tuyến. Sợ quá, đành phải thú thật.

    Năm 1973, sau Hiệp định Hòa bình Pa-ri, đơn vị giữ chốt giáp ranh ven biển Quảng Trị, sau những ngày biển động, nước rút ra xa, để lại ven biển những vũng nước trong vắt có rất nhiều cua cá. Chúng tôi thỏa sức bắt. Mùa moi đỏ rực một vạt mặt nước biển. Ngư dân giăng lưới đánh bắt cá nục vào ăn moi. Cá vun từng đống ven bờ, anh em mang bao cát ra xin, đem về luộc phơi khô ăn dần. Dinh dưỡng đầy đủ, lính tráng rất khỏe mạnh.

    Mùa mưa bão, nước mênh mang, chuột chạy từng đàn lên những cồn cát nhỏ ẩn náu. Tiểu đội cử hai chiến sĩ đi săn. Chỉ một hai tiếng, anh em đã khiêng về cả bao tải chuột. Những con chuột ăn xác thối to khủng khiếp.

    Giữa năm 1974 về Gia Độ, thiếu chất đốt trầm trọng, đơn vị cử 4 chiến sĩ lên miền tây khai thác củi. Tin dữ bay về, hai chiến sĩ bị thiệt mạng vì đánh cá bằng thuốc nổ, dùng nhầm kíp nổ tức thì. Quân pháp về đại đội làm việc mấy ngày trời. Miếng thịt miếng cá quả là miếng nhục.

    Cuối năm ấy chúng tôi chuyển lên miền tây Quảng Trị. Lán của trung đội dựng trên đồi. Một buổi sớm, thấy nhốn nháo dưới chân đồi, không hiểu chuyện gì, hai lính phi xuống. Thì ra có một con trăn khổng lồ bị Phùng đánh một gậy đang cố trườn vào đám cỏ tranh. Thằng Bình sợ mất miếng mồi ngon nhảy sổ vào chộp lấy cái cổ con trăn cố vác lên vai, thằng Tân đỡ phần đuôi. Hai đứa phóng thẳng về tiểu đội trước bao con mắt thán phục xen lẫn tiếc nuối của đội bạn. Trông thằng Bình chẳng khác gì chàng Thạch Sanh dũng mãnh trong truyện cổ tích. Có khác chăng chỉ ở mục đích của hành động dũng cảm ấy. Con mãng xà lập tức được xả thịt đựng đầy hai nồi quân dụng. Còn cái mật, không biết nghe ai bảo bổ lắm, thằng Sơn cho ngay vào mồm nuốt chửng.

    Không biết có bổ thật hay không mà mặt nó lúc nào cũng đỏ phừng phừng. Đến nay, bản thành tích sức khỏe của nó ghi nhận, chính thức qua ba đời vợ, thêm nếm không kể. Vợ nó thường đóng vai thợ săn trên đường phố ...

    Chiến dịch Xuân Hè năm 1975, đang đánh nhau ở Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, trên cao điểm, xác một chú cẩu dính đạn nằm chềnh ềnh. Tiểu đội vừa khống chế địch dưới đường vừa xả thịt chó rang vội vàng. Nhiệm vụ nào cũng quan trọng như nhau. Lâu lắm chẳng được miếng “nhục” nào, anh em oải lắm, không biết có tới được Sài Gòn không?

    Mấy chục năm rồi, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Người dân được tự do kinh doanh, đất nước nhanh chóng đổi thay. Nhất là ở thành thị. Miếng “nhục” không còn là nỗi ám ảnh của cả một thế hệ. Nhưng trớ trêu thay, nó lại sang một trạng thái đối lập: Khủng hoảng thừa. Tiệc tùng liên miên, ăn uống vô độ. Nhiều người cứ phát phì ra, kéo theo cả hàng toa tầu bệnh tật.

    Cha tôi đã khuất núi từ lâu. Thỉnh thoảng tôi lại về quê, thắp cho ông mấy nén hương. Đứng trước mộ, tôi lại nhớ đến món ăn tinh thần của người ngày nào. Cha nói đúng : “ Miếng thịt là miếng nhục”, thời nào cũng vậy, ngay cả trong chiến tranh, khốn khó cũng như lúc no đủ, hòa bình.

    Tháng 9 năm 2012
    Như Thìn

      Hôm nay: Sun May 19, 2024 10:43 pm

      -------- quảng cáo
      Tắt Quảng Cáo [X]
      Tắt Quảng Cáo [X]