Ngày 23 tháng 10 năm 1965, trung đoàn bộ binh 320 (Mặt trận Tây Nguyên) đã đánh trận vận động phục kích trên đường 21, tiêu diệt hầu hết lực lượng cứu viện đồn Plei Me của địch.
I. TÌNH HÌNH CHUNG
A. Địa hình, thời tiết
Đường 21 là đường giao thông nội tỉnh, từ ngã ba Phú Mỹ chạy qua đồn biệt kích Plei Me (do Mỹ – QL VNCH kiểm soát) rồi vòng về phía đông nam nối với đường 14 ở Phú Nhơn, có chiều dài khoảng 45km. Ngoài đường không, đây là con đường bộ duy nhất có thể cơ động lực lượng tiếp tế, ứng cứu, hành quân giải tỏa cho Plei Me và các cuộc hành quân nống ra vùng giải phóng của ta ở phía tây nam Plei Ku.
Đường 21 chạy vắt qua Các đỉnh đồi nên nền đường thường cao hơn hai bên, rộng từ 6 đến 8 mét, bằng đất đá, bị xuống cấp, nhưng vẫn cơ động được xe cơ giới. Trận địa phục kích được nhọn ở khu vực từ bắc điểm cao 601 đến điểm cao 538, có độ dài khoảng 4km (Nay thuộc ba xã: Ia Tô, Ia Me và Ia Pia huyện Chư prông, tỉnh Gia Lai), cách thị xã Plei Ku trên 30km về phía nam và cách đồn Plei Me trên 10km về phía bắc.
Đoạn đường phục kích có nhiều dốc thoải với bốn quả đồi nối tiếp nhau từ bắc xuống nam: 601, Blou, Cây độc lập, 538, có giá trị khống chế và án ngữ, nếu ta chiếm được sẽ cắt đứt đường cơ động, chặn đứng đoàn xe địch, vừa có thế chia cắt, vừa có thế bao vây tiêu diệt gọn.
Phía đông đường là bình độ 500, có nhiều đồi thấp nối tiếp nhau, bao phủ là các vạt gai xấu hổ và cây non xen kẽ các nương rẫy của dân trong các bản ” hợp pháp”, “công khai” do địch kiểm soát. Cách đường vài trăm mét trở ra, rừng cây to dần. Phía tây đường cũng có rừng non, nương rẫy, các nơi có thể giấu quân rất hẹp nên phải ngụy trang giữ bí mật hết sức cẩn thận chu đáo. Hầu hết các vị trí xuất phát tiến công đều thấp hơn mặt đường, nên ta phải đánh từ dưới lên.
Dọc hai bên đường đều có suối rộng, suối Ia Thyoa ở phía đông đường, suối Ia Meur ở phía tây đường. Các suối này chạy song song và cách mặt đường từ vài trăm mét đến 1-2km, lòng suối rộng từ 10 – 20 mét, nước chảy xiết, phải bắc cầu mới qua được.
Thời tiết Tây Nguyên chia làm hai mùa rõ rệt, thời gian tác chiến vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô nên trời nhiều mây thỉnh thoảng vẫn mưa to, hạn chế đến tầm quan sát và hành động chiến đấu của ta và địch.
Tóm lại khu vực tác chiến từ điểm cao 601 đến 538 có đường 21 đi qua, địa hình tương đối trống trải, đường chạy qua các đỉnh đồi, hai bên bằng phẳng thấp dần rất thuận lợi cho địch sử dụng xe tăng máy bay. Khi phục kích, ta phải ém quân cách xa đường từ 2-3km, chuẩn bị trận địa, đường cơ động rất tỉ mỉ công phu, ngụy trang và giữ bí mật tốt vẫn có thể giữ được yếu tố bất ngờ.
B. Tình hình địch
Plei Me là đồn biệt kích ở phía tây nam Plei Ku khoảng 40km, được tên tướng ngụy Vĩnh Lộc, tư lệnh quân đoàn 2 liệt vào loại vị trí biên phòng mạnh và hiểm yếu cùng với các đồn Đức Cơ, Plei Giăng, Tou Mơ Rông tạo thành tuyến ngăn chặn bảo vệ Plei Ku và con đường 14 chiến lược. Nếu ta đánh Plei Me, buộc địch phải đưa quân đến cứu viện theo đường không và đường 21.
Ngày 19 tháng 10 năm 1965, trung đoàn 33 vây hãm đồn Plei Me, diệt tiền đồn Chư Hô mở màn chiến dịch, thực hiện nhiệm vụ vây điểm để đơn vị bạn diệt viện. Đúng như ta nhận định, sáng ngày 23 tháng 10, địch dùng chiến đoàn 3 thiết giáp, tiểu đoàn 21 biệt động quân và tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 do tên trung tá chiến đoàn trưởng Nguyễn Trọng Luật chỉ huy tiến theo đường 21 đến giải vây cho đồn Plei Me. Đồng thời, địch dùng trực thăng đổ tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống Plei Me To, đưa sở chỉ huy tiền phương biệt khu 24 do một tên đại tá chỉ huy đến Phú Mỹ.
Chiến đoàn 3 là chiến đoàn cơ giới duy nhất của biệt khu 24 lúc đó, gồm ba chi đoàn: xe M113, xe tăng với tổng số trên 40 xe tăng, M113 và nhiều xe chở đạn, xăng dầu… Các đơn vị xe tăng, bộ binh biệt động quân và trung đội pháo 105mm (hai khẩu), đi cùng có quân số trang bị đầy đủ, đều đã tham chiến ở Tây Nguyên. Tổng số quân địch khoảng trên 1.000 tên.
Mặc dù quân đông, trang bị nhiều, hỏa lực mạnh, được máy bay pháo binh chi viện, dọn đường và trinh sát nhưng quân địch hành quân rất thận trọng, tiến quân chậm. Đề phòng ta phục kích, trước khi hành quân từ 2-3 ngày địch dùng máy bay trinh sát lùng sục bắn phá dọn đường 21, cho một đại đội thám báo càn quét lùng sục hai bên đường từ Ogri đến Plei Me, đổ tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống Chư Vôn (cách phía nam trận địa ta 3km).
Đội hình hành quân của địch bố trí thành ba đoàn cách nhau vài trăm mét. Đoàn đi đầu có xe tăng, M113 và hơn một đại đội bộ binh xen kẽ. Tên chiến đoàn trưởng và cố vấn Mỹ đi cùng đoàn thứ hai, có xe tăng, M113 và hai đại đội bộ binh đi cùng. Đoàn thứ ba, ngoài lực lượng xe tăng, M113, bộ binh còn có trung đội pháo 105mm, xe chở đạn, chở xăng, hậu cần đi cùng. Tốc độ hành quân của địch luôn thay đổi, đang chạy nhanh đột ngột dừng lại, đổ quân đi bộ, dùng hỏa lực bất ngờ bắn vào những nơi nghi ngờ, có khi xe tăng M113 dàn hàng ngang vừa tiến vừa bắn hoặc đột ngột dừng rồi cụm lại trên các đỉnh đồi như chuẩn bị trú quân.
Khi bị ta tiến công, địch dựa vào xe tăng, M113 cơ động nhanh, hỏa lực mạnh có bộ binh yểm trợ kiên quyết ngăn chặn, bắn chia cắt đội hình phía sau của ta, có khi dàn hàng ngang phản kích rồi nhanh chóng cơ động chiếm các điểm cao có lợi, cụm lại đánh trả, rồi gọi máy bay pháo binh chi viện hỏa lực hoặc đổ bộ giải tỏa.
Ngoài lực lượng ở Phú Mỹ, Plei Ku, Bàu Cạn, đồn Bó, Chư Vôn và máy bay pháo binh chi viện, bọn địch hành quân trên đường 21 còn được lực lượng sư đoàn ky binh bay số 1 của Mỹ từ An Khê, Bàu Cạn… sẵn sàng đổ bộ ứng cứu.
Tóm lại, định có quân số đông, hỏa lực mạnh, phương tiện hiện đại, cơ động nhanh, tiến quân thận trọng, luôn cảnh giác đề phòng ta phục kích. Nhưng tinh thần binh lính dao động, dễ bị rối loạn, chia cắt và bị tiêu diệt, nếu ta tiến công mạnh, đồng loạt liên tục và bất ngờ, triệt để đánh gần trên toàn trận địa.
C. Tình hình ta
Trung đoàn bộ binh 320 là trung đoàn chủ lực đầu tiên từ miền Bắc vào chiến trường Tây Nguyên từ tháng 9 năm 1964, do đồng chí Tô Đình Khản làm trung đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Chức làm chính ủy. Khi tham gia chiến dịch Plei Me, trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh (966, 635, 334) và các phân đội hỏa lực bảo đảm: súng cối, ĐKZ, phòng không, thông tin, trinh sát, công binh, quân y, vận tải. Vũ khí trang bị mang vác gọn nhẹ, hỏa lực chống tăng mạnh, bao gồm: ĐKZ 75mm, B40, cối 81mm, 12,7mm, đại liên, trung liên, AK, CKC, lựu đạn, thủ pháo, mìn chống tăng.
Sau hơn một năm chiến đấu ở phía tây Gia Lai, trung đoàn đã phối hợp cùng đơn vị bạn và đánh độc lập nhiều trận lớn nhỏ, trong đó có những trận quy mô toàn trung đoàn như: trận phục kích ở đèo Thanh Bình (1-6-1965), bao vây Đức Cơ (tháng và trận vận động tiến công ngày 9 tháng 8 năm 1965. Qua quá trình chiến đấu, cán bộ chiến sĩ đã tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm, nhất là đánh vận động phục kích giao thông, quen dần địa hình thời tiết hiểu đối tượng tác chiến, hiệp đồng và quan hệ chặt chẽ với đơn vị bạn, chính quyền địa phương, dân quân du kích và nhân dân.
Tháng 8 năm 1965, trung đoàn nhận nhiệm vụ tham gia chiến dịch Plei Me. Đây là chiến dịch đầu tiên của quân và dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, nên các đơn vị tham gia chiến dịch được Bộ tư lệnh Mặt trận quan tâm, tập trung chỉ đạo thường xuyên, liên tục. Trước khi vào chiến dịch, đơn vị đã tiến hành đại hội Đảng các cấp, quán triệt phương châm cách đánh “vây điểm, diệt viện”, xây dựng quyết tâm diệt gọn chiến đoàn QL VNCH, thực hiện khẩu hiệu: “gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt”. Nhiều cuộc tranh luận sôi nổi, đấu tranh căng thẳng giữa tư tưởng tích cực và tiêu cực, quyết tâm và do dự, cuối cùng nhân tố tích cực đã thắng. Mỗi cán bộ đảng viên, đoàn viên và quần chúng đều xáy dựng được tinh thần dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ. Rút kinh nghiệm thắng trận đánh trước, trung đoàn làm tốt đợt chỉnh huấn, tập trung giải quyết những khó khăn trong cách đánh phục kích đoàn xe cơ giới có bộ binh hộ tống trên địa hình đoạn đường 21 do đơn vị đảm nhiệm. Sau đợt chỉnh huấn và huấn luyện bổ sung, lập trường tư tưởng, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội được củng cố và nâng cao, ai cũng phấn khởi nhận nhiệm vụ, sẵn sàng bước vào trận chiến đấu mới rất gay go và ác liệt.
Cùng đánh địch trong đội hình và thế trận chung của chiến dịch có trung đoàn 33 vây ép đánh địch ở Plei Me, trung đoàn 66 mới vào đến chiến trường đánh địch ở khu trung tuyến, các phân đội đặc công, bộ đội địa phương, du kích huyện 5 của tỉnh Gia Lai, nghi binh quấy rối địch ở Đức Cơ, Tân Lạc, Bầu Cạn, Phú Mỹ, Phú Nhơn… nhằm phân tán, chia cắt địch, phối hợp với các đơn vị chủ lực Mặt trận. Ngoài ra trung đoàn 320 còn được đu kích hoạt động trong các làng “hợp pháp” dọc hai bên đường 21 giúp đỡ đưa đường, trinh sát nắm địch…
Tóm lại, trung đoàn 320 là đơn vị có kinh nghiệm đánh vận động phục kích giao thông, được Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận quan tâm chỉ đạo giúp đỡ, đánh địch trong thế trận chung của chiến dịch. Cán bộ chiến sĩ được chỉnh huấn và huấn luyện bổ sung chu đáo, có thời gian chuẩn bị dài, nắm được địa hình và đối tượng tác chiến. Mặc dù còn một số khó khăn như” tư tưởng ngại đánh cơ giới địch, đánh độc lập đánh lớn, địa hình ít thuận lợi… nhưng cán bộ chiến sĩ rất phấn khởi, có ý chí quyết tâm cao, có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
I. TÌNH HÌNH CHUNG
A. Địa hình, thời tiết
Đường 21 là đường giao thông nội tỉnh, từ ngã ba Phú Mỹ chạy qua đồn biệt kích Plei Me (do Mỹ – QL VNCH kiểm soát) rồi vòng về phía đông nam nối với đường 14 ở Phú Nhơn, có chiều dài khoảng 45km. Ngoài đường không, đây là con đường bộ duy nhất có thể cơ động lực lượng tiếp tế, ứng cứu, hành quân giải tỏa cho Plei Me và các cuộc hành quân nống ra vùng giải phóng của ta ở phía tây nam Plei Ku.
Đường 21 chạy vắt qua Các đỉnh đồi nên nền đường thường cao hơn hai bên, rộng từ 6 đến 8 mét, bằng đất đá, bị xuống cấp, nhưng vẫn cơ động được xe cơ giới. Trận địa phục kích được nhọn ở khu vực từ bắc điểm cao 601 đến điểm cao 538, có độ dài khoảng 4km (Nay thuộc ba xã: Ia Tô, Ia Me và Ia Pia huyện Chư prông, tỉnh Gia Lai), cách thị xã Plei Ku trên 30km về phía nam và cách đồn Plei Me trên 10km về phía bắc.
Đoạn đường phục kích có nhiều dốc thoải với bốn quả đồi nối tiếp nhau từ bắc xuống nam: 601, Blou, Cây độc lập, 538, có giá trị khống chế và án ngữ, nếu ta chiếm được sẽ cắt đứt đường cơ động, chặn đứng đoàn xe địch, vừa có thế chia cắt, vừa có thế bao vây tiêu diệt gọn.
Phía đông đường là bình độ 500, có nhiều đồi thấp nối tiếp nhau, bao phủ là các vạt gai xấu hổ và cây non xen kẽ các nương rẫy của dân trong các bản ” hợp pháp”, “công khai” do địch kiểm soát. Cách đường vài trăm mét trở ra, rừng cây to dần. Phía tây đường cũng có rừng non, nương rẫy, các nơi có thể giấu quân rất hẹp nên phải ngụy trang giữ bí mật hết sức cẩn thận chu đáo. Hầu hết các vị trí xuất phát tiến công đều thấp hơn mặt đường, nên ta phải đánh từ dưới lên.
Dọc hai bên đường đều có suối rộng, suối Ia Thyoa ở phía đông đường, suối Ia Meur ở phía tây đường. Các suối này chạy song song và cách mặt đường từ vài trăm mét đến 1-2km, lòng suối rộng từ 10 – 20 mét, nước chảy xiết, phải bắc cầu mới qua được.
Thời tiết Tây Nguyên chia làm hai mùa rõ rệt, thời gian tác chiến vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô nên trời nhiều mây thỉnh thoảng vẫn mưa to, hạn chế đến tầm quan sát và hành động chiến đấu của ta và địch.
Tóm lại khu vực tác chiến từ điểm cao 601 đến 538 có đường 21 đi qua, địa hình tương đối trống trải, đường chạy qua các đỉnh đồi, hai bên bằng phẳng thấp dần rất thuận lợi cho địch sử dụng xe tăng máy bay. Khi phục kích, ta phải ém quân cách xa đường từ 2-3km, chuẩn bị trận địa, đường cơ động rất tỉ mỉ công phu, ngụy trang và giữ bí mật tốt vẫn có thể giữ được yếu tố bất ngờ.
B. Tình hình địch
Plei Me là đồn biệt kích ở phía tây nam Plei Ku khoảng 40km, được tên tướng ngụy Vĩnh Lộc, tư lệnh quân đoàn 2 liệt vào loại vị trí biên phòng mạnh và hiểm yếu cùng với các đồn Đức Cơ, Plei Giăng, Tou Mơ Rông tạo thành tuyến ngăn chặn bảo vệ Plei Ku và con đường 14 chiến lược. Nếu ta đánh Plei Me, buộc địch phải đưa quân đến cứu viện theo đường không và đường 21.
Ngày 19 tháng 10 năm 1965, trung đoàn 33 vây hãm đồn Plei Me, diệt tiền đồn Chư Hô mở màn chiến dịch, thực hiện nhiệm vụ vây điểm để đơn vị bạn diệt viện. Đúng như ta nhận định, sáng ngày 23 tháng 10, địch dùng chiến đoàn 3 thiết giáp, tiểu đoàn 21 biệt động quân và tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 do tên trung tá chiến đoàn trưởng Nguyễn Trọng Luật chỉ huy tiến theo đường 21 đến giải vây cho đồn Plei Me. Đồng thời, địch dùng trực thăng đổ tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống Plei Me To, đưa sở chỉ huy tiền phương biệt khu 24 do một tên đại tá chỉ huy đến Phú Mỹ.
Chiến đoàn 3 là chiến đoàn cơ giới duy nhất của biệt khu 24 lúc đó, gồm ba chi đoàn: xe M113, xe tăng với tổng số trên 40 xe tăng, M113 và nhiều xe chở đạn, xăng dầu… Các đơn vị xe tăng, bộ binh biệt động quân và trung đội pháo 105mm (hai khẩu), đi cùng có quân số trang bị đầy đủ, đều đã tham chiến ở Tây Nguyên. Tổng số quân địch khoảng trên 1.000 tên.
Mặc dù quân đông, trang bị nhiều, hỏa lực mạnh, được máy bay pháo binh chi viện, dọn đường và trinh sát nhưng quân địch hành quân rất thận trọng, tiến quân chậm. Đề phòng ta phục kích, trước khi hành quân từ 2-3 ngày địch dùng máy bay trinh sát lùng sục bắn phá dọn đường 21, cho một đại đội thám báo càn quét lùng sục hai bên đường từ Ogri đến Plei Me, đổ tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống Chư Vôn (cách phía nam trận địa ta 3km).
Đội hình hành quân của địch bố trí thành ba đoàn cách nhau vài trăm mét. Đoàn đi đầu có xe tăng, M113 và hơn một đại đội bộ binh xen kẽ. Tên chiến đoàn trưởng và cố vấn Mỹ đi cùng đoàn thứ hai, có xe tăng, M113 và hai đại đội bộ binh đi cùng. Đoàn thứ ba, ngoài lực lượng xe tăng, M113, bộ binh còn có trung đội pháo 105mm, xe chở đạn, chở xăng, hậu cần đi cùng. Tốc độ hành quân của địch luôn thay đổi, đang chạy nhanh đột ngột dừng lại, đổ quân đi bộ, dùng hỏa lực bất ngờ bắn vào những nơi nghi ngờ, có khi xe tăng M113 dàn hàng ngang vừa tiến vừa bắn hoặc đột ngột dừng rồi cụm lại trên các đỉnh đồi như chuẩn bị trú quân.
Khi bị ta tiến công, địch dựa vào xe tăng, M113 cơ động nhanh, hỏa lực mạnh có bộ binh yểm trợ kiên quyết ngăn chặn, bắn chia cắt đội hình phía sau của ta, có khi dàn hàng ngang phản kích rồi nhanh chóng cơ động chiếm các điểm cao có lợi, cụm lại đánh trả, rồi gọi máy bay pháo binh chi viện hỏa lực hoặc đổ bộ giải tỏa.
Ngoài lực lượng ở Phú Mỹ, Plei Ku, Bàu Cạn, đồn Bó, Chư Vôn và máy bay pháo binh chi viện, bọn địch hành quân trên đường 21 còn được lực lượng sư đoàn ky binh bay số 1 của Mỹ từ An Khê, Bàu Cạn… sẵn sàng đổ bộ ứng cứu.
Tóm lại, định có quân số đông, hỏa lực mạnh, phương tiện hiện đại, cơ động nhanh, tiến quân thận trọng, luôn cảnh giác đề phòng ta phục kích. Nhưng tinh thần binh lính dao động, dễ bị rối loạn, chia cắt và bị tiêu diệt, nếu ta tiến công mạnh, đồng loạt liên tục và bất ngờ, triệt để đánh gần trên toàn trận địa.
C. Tình hình ta
Trung đoàn bộ binh 320 là trung đoàn chủ lực đầu tiên từ miền Bắc vào chiến trường Tây Nguyên từ tháng 9 năm 1964, do đồng chí Tô Đình Khản làm trung đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Chức làm chính ủy. Khi tham gia chiến dịch Plei Me, trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh (966, 635, 334) và các phân đội hỏa lực bảo đảm: súng cối, ĐKZ, phòng không, thông tin, trinh sát, công binh, quân y, vận tải. Vũ khí trang bị mang vác gọn nhẹ, hỏa lực chống tăng mạnh, bao gồm: ĐKZ 75mm, B40, cối 81mm, 12,7mm, đại liên, trung liên, AK, CKC, lựu đạn, thủ pháo, mìn chống tăng.
Sau hơn một năm chiến đấu ở phía tây Gia Lai, trung đoàn đã phối hợp cùng đơn vị bạn và đánh độc lập nhiều trận lớn nhỏ, trong đó có những trận quy mô toàn trung đoàn như: trận phục kích ở đèo Thanh Bình (1-6-1965), bao vây Đức Cơ (tháng và trận vận động tiến công ngày 9 tháng 8 năm 1965. Qua quá trình chiến đấu, cán bộ chiến sĩ đã tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm, nhất là đánh vận động phục kích giao thông, quen dần địa hình thời tiết hiểu đối tượng tác chiến, hiệp đồng và quan hệ chặt chẽ với đơn vị bạn, chính quyền địa phương, dân quân du kích và nhân dân.
Tháng 8 năm 1965, trung đoàn nhận nhiệm vụ tham gia chiến dịch Plei Me. Đây là chiến dịch đầu tiên của quân và dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, nên các đơn vị tham gia chiến dịch được Bộ tư lệnh Mặt trận quan tâm, tập trung chỉ đạo thường xuyên, liên tục. Trước khi vào chiến dịch, đơn vị đã tiến hành đại hội Đảng các cấp, quán triệt phương châm cách đánh “vây điểm, diệt viện”, xây dựng quyết tâm diệt gọn chiến đoàn QL VNCH, thực hiện khẩu hiệu: “gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt”. Nhiều cuộc tranh luận sôi nổi, đấu tranh căng thẳng giữa tư tưởng tích cực và tiêu cực, quyết tâm và do dự, cuối cùng nhân tố tích cực đã thắng. Mỗi cán bộ đảng viên, đoàn viên và quần chúng đều xáy dựng được tinh thần dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ. Rút kinh nghiệm thắng trận đánh trước, trung đoàn làm tốt đợt chỉnh huấn, tập trung giải quyết những khó khăn trong cách đánh phục kích đoàn xe cơ giới có bộ binh hộ tống trên địa hình đoạn đường 21 do đơn vị đảm nhiệm. Sau đợt chỉnh huấn và huấn luyện bổ sung, lập trường tư tưởng, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội được củng cố và nâng cao, ai cũng phấn khởi nhận nhiệm vụ, sẵn sàng bước vào trận chiến đấu mới rất gay go và ác liệt.
Cùng đánh địch trong đội hình và thế trận chung của chiến dịch có trung đoàn 33 vây ép đánh địch ở Plei Me, trung đoàn 66 mới vào đến chiến trường đánh địch ở khu trung tuyến, các phân đội đặc công, bộ đội địa phương, du kích huyện 5 của tỉnh Gia Lai, nghi binh quấy rối địch ở Đức Cơ, Tân Lạc, Bầu Cạn, Phú Mỹ, Phú Nhơn… nhằm phân tán, chia cắt địch, phối hợp với các đơn vị chủ lực Mặt trận. Ngoài ra trung đoàn 320 còn được đu kích hoạt động trong các làng “hợp pháp” dọc hai bên đường 21 giúp đỡ đưa đường, trinh sát nắm địch…
Tóm lại, trung đoàn 320 là đơn vị có kinh nghiệm đánh vận động phục kích giao thông, được Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận quan tâm chỉ đạo giúp đỡ, đánh địch trong thế trận chung của chiến dịch. Cán bộ chiến sĩ được chỉnh huấn và huấn luyện bổ sung chu đáo, có thời gian chuẩn bị dài, nắm được địa hình và đối tượng tác chiến. Mặc dù còn một số khó khăn như” tư tưởng ngại đánh cơ giới địch, đánh độc lập đánh lớn, địa hình ít thuận lợi… nhưng cán bộ chiến sĩ rất phấn khởi, có ý chí quyết tâm cao, có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ.