Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

Diễn đàn Quân sử Việt Nam

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Diễn đàn Quân sử Việt Nam

Nơi tìm kiếm thông tin Liệt sĩ và người thân thất lạc trong chiến tranh


    Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

    bichly
    bichly
    Binh nhì
    Binh nhì

    Tổng số bài gửi : 16
    Join date : 03/04/2014

    Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên Empty Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

    Bài gửi by bichly Fri May 30, 2014 11:58 pm

    Cuối tháng 12 năm 1966, tôi được điều vào làm Tư lệnh Đoàn 559 - bộ đội Trường Sơn, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương.

    Chương I
    VÀO CUỘC

    I.

    Đầu năm 1965, đang là Phó tổng tham mưu trưởng, tôi được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đưa vàó làm Chính uỷ Quân khu 4.
    Lúc này, chiến tranh không còn giới hạn ở nam phần vĩ tuyến 17. Kể từ sau ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngày mà Mỹ dựng đứng lên cái gọi là "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ rồi cho máy bay, tàu chiến ồ ạt tập kích hòng "trả đũa Bắc Việt", lửa chiến tranh đã cháy rực trên cả hai miền Nam - Bắc.
    Hơn bất cứ nơi đâu trên miền Bắc, Khu 4 - rẻo đất tự bao đời lao đao bởi những thách đố dữ dằn của thiên nhiên, bởi binh đao giặc giã, nay lại đứng ở tuyến đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
    Trưởng thành từ "những trận chiến đấu vỡ lòng" trên chính mảnh đất này, từng giữ nhiều cương vị chủ trì lực lượng vũ trang địa phương: xã, huyện, tỉnh; tiếp đó công tác ở cơ quan Bộ Quốc phòng, nay được trở về cùng quân và dân quê nhà đánh địch, mọi chuyện với tôi thật hợp lý, nhẹ nhàng? Điều trăn trở, thoáng chen chút lo lắng là chiến trường quen thuộc, nhưng kẻ thù mới là đế quốc Mỹ - tên sen đầm thế kỷ với bao cuồng vọng…, liệu tôi sẽ cùng đồng chí, đồng đội chèo chống sao đây trên cương vị công tác mới!
    Ngày 6 tháng 1, chúng tôi lên đường khi chưa tỏ mặt người. Gió bấc cuối đông quất từng hồi ràn rạt, thổi tung đám lá vàng vừa lìa cành trong đêm. Khỏi Cửa Nam, xe cùng gió hút theo đường Nam Bộ. Một hồi còi tàu rú lên từ phía ga Hàng Cỏ như thúc giục. Tạm biệt Hà Nội thân yêu, phố phường như còn ngái ngủ, mà nhịp sống đã trào lên những tín hiệu vội vàng của một ngày mới.
    Dọc đường, càng vào phía trong, không khí chiến tranh như bức hoạ hiện dần đủ bố cục, sắc màu. Những nòng pháo quấn lá nguỵ trang vươn ngạo nghễ canh cầu Hàm Rồng, cầu Bùng, cầu Cấm… Những hầm, hố cá nhân cũ - mới… rải dọc ven đường; những bức tường nhà trắng màu vôi được phủ vội vàng nhựa đường, bùn đất… Vinh - "thủ phủ" của Khu 4 - thành phố giao thương trên bến dưới thuyền, ngày xưa vua Quang Trung - Nguyễn Huệ định chọn làm kinh đô, cho xây thành trên núi Quyết, gọi là "Phượng Hoàng Trung đô", nay bình tĩnh, vững vàng trong dáng vóc một thành phố đã dạn dày bom đạn. Người già, trẻ nhỏ sơ tán ra vùng ven. Chợ họp sớm, tan nhanh. Những trận địa súng máy phòng không được cấu trúc trên sân thượng nhà cao tầng, thấp thoáng bóng dáng nam nữ tự vệ…
    Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã chuyển vào đóng ở địa đạo trong núi Quyết, sau đó chuyển lên đóng ở Nam Thanh, Nam Đàn - quê hương Bác, cách thành phố Vinh hơn hai chục cây số về phía tây bắc. Sinh hoạt của cơ quan quân khu lúc này đã thời chiến lắm, cẩn mật lắm. Cẩn mật tới mức, ngày ngày có một đồng chí trợ lý bảo vệ ngó ngó, nghiêng nghiêng, hễ thấy chiếc khăn mặt nào, ai đó phơi dễ "bị lộ" là cất ngay…
    Tư lệnh Quân khu là anh Nam Long. Đúng là trái đất tròn! Sau 15 năm kể từ ngày kết thúc lớp bổ túc cán bộ trung cấp quân sự đầu tiên của Bộ mở ở Đại Từ - Thái Nguyên vào cuối năm 1950, tôi lại được làm việc cùng anh. Nhớ ngày đó, vừa là học viên, anh kiêm chức đại đội trưởng, tôi kiêm chức chính trị viên. Trong điều kiện học hành vô cùng khó khăn, thiếu thốn giữa núi rừng Việt Bắc, kíp làm việc của anh em chúng tôi đã giúp trường tổ chức, động viên lớp học được xem là "con cưng" của Bộ Tổng hoàn thành chương trình nhanh, gọn; bổ sung kịp thời cho các hướng chiến trường đang chuyển sang giai đoạn phản công.
    Sau vài ngày "nhập cuộc", tôi dành thời gian tìm hiểu tình hình, chủ trương xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4.
    Luận bàn với các anh trong Bộ Tư lệnh quân khu về mưu đồ nhất quán, lâu dài cũng như những thủ đoạn trước mắt của đế quốc Mỹ đối với cách mạng Việt Nam và ba nước Đông Dương. Tôi cho rằng chiến lược "Chiến tranh đặt biệt" mà Mỹ tiến hành ở miền Nam gần như thất bại hoàn toàn. Nay chúng tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh trước tiên vào Khu 4 - hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, hòng làm suy yếu hậu phương chiến lược, làm lung lay ý chí, quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và ngăn chặn mọi hoạt động chi viện chiến trường. Đồng thời đây cũng chính là hành động thăm dò của Nhà Trắng để tiếp tục leo nấc thang mới trên chiến trường miền Nam.
    Suy nghĩ của anh Nam Long đẩy vấn đề đi xa hơn: Chiến tranh xâm lược của Mỹ đã lên một nấc thang mới. Liệu rồi, sau một chuỗi những yếu tố tổng hợp diễn biến tình hình như vậy, Mỹ có dám cho quân đổ bộ vào nam Khu 4, thực hiện cuồng vọng "lấp sông Bến Hải" một thời của Ngô Đình Diệm hay không? Thực tình đây là một vấn đề nóng bỏng mà ở cương vị một Tư lệnh quân khu trực tiếp tiếp xúc với kẻ thù, ai cũng phải tính đến.
    Hiểu được suy tính của anh, tôi thẳng thắa trao đổi:
    - Không loại trừ việc Mỹ đưa quân ra miền Bắc, nhưng ở vị thế một quân khu, chúng ta chưa có đủ cứ liệu để khắng định. Việc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc là hoàn toàn bị động, nhất định chúng sẽ chuốc lấy những thất bại và hậu quả khôn lường.
    Vấn đề trọng tâm mà chúng tôi dồn hết tâm lực nghiên cứu, trao đổi trong nhiều buổi làm việc, thậm chí cả trong bữa ăn, giờ nghỉ, là chỉ đạo, tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn "vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương" này.
    bichly
    bichly
    Binh nhì
    Binh nhì

    Tổng số bài gửi : 16
    Join date : 03/04/2014

    Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên Empty Re: Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

    Bài gửi by bichly Fri May 30, 2014 11:59 pm

    Ngày 7 tháng 2 năm 1965, đế quốc Mỹ mở chiến dịch đánh phá của không quân mang tên "Mũi lao lửa", cho máy bay đánh vào thị trấn Hồ Xá - Vĩnh Linh, thị xã Đồng Hới - Quảng Bình. Hôm sau chúng tiếp tục đánh phá một số nơi ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, và ngày 11 tháng 2, máy bay Mỹ xâm phạm vùng trời Nghệ An. Qua ba ngày chiến đấu, quân và dân Quảng Bình, Vĩnh Linh và Nghệ An bắn rơi 12 máy bay Mỹ.
    Cuộc chiến tranh phá hoại của địch tuy mới diễn ra một thời gian ngắn, nhưng mức độ ngày một ác liệt. Không chỉ tập kích bằng đường không, địch còn khiêu khích ta ở bờ bắc sông Bến Hải, dọc theo giới tuyến quân sự tạm thời, kết hợp bắn pháo từ các hạm tàu ngoài biển vào đất liền.
    Trong một buổi làm việc bàn cách đánh trả không quân Mỹ, tôi trao đổi với anh Nam Long về chiến lược tập kích đường không, về tổ chức phòng không ở Mát-xcơ-va trong đại chiến thế giới lần thứ hai. Đây là một trong những nội dung tôi được học tập, nghiên cứu trong ba năm đào tạo tại Học viện Quân sự cao cấp Bắc Kinh, Trung Quốc. Đặc biệt, cách tổ chức phòng không bảo vệ Mát-xcơ-va lúc bấy giờ có nhiều kinh nghiệm mà chúng ta cần nghiên cứu, tham khảo. Tuy nhiên, lúc này Quân khu không được trang bị nhiều vũ khí, khí tài phòng không như Hồng quân Liên Xô. Điều chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng là ý chí, lòng tự tin của binh sĩ; tài nghệ của tướng lĩnh, sĩ quan chỉ huy trong việc sử dụng nhiều loại vũ khí, nhiều tầng, nhiều vòng hoả lực bổ sung cho nhau, kết hợp đánh cản và thả khí cầu, dùng không quân đánh chặn vòng ngoài, dùng đèn chiếu phát hiện mục tiêu cho cao xạ đánh ban đêm… Với chính những điều đó, Hồng quân Liên Xô đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh địch, bảo đảm cho Mát-xcơ-va đứng vững trong mưa bom, bão đạn của không quân nước Đức phát xít.
    Chiến tranh phá hoại mà đế quốc Mỹ đang tiến hành trên địa bàn Quân khu 4 cũng mang tính chất tập kích đường không, kết hợp pháo kích từ các hạm tàu từ biển vào, dĩ nhiên phương tiện chiến tranh của Mỹ đã hiện đại, tối tân hơn nhiều sau hơn hai thập kỷ chạy đua vũ trang kể từ sau đại chiến 2; đồng thời phạm vi đối tượng, mục đích đánh phá của chúng cũng khác nhiều. Với địa thế eo thắt - được xem là vùng "cán xoong" Khu 4, chủ tâm đánh phá của địch không ngoài huỷ diệt và ngăn chặn tuyến chi viện. chiến lược…
    Sau khi nghe tôi trình bày những suy nghĩ của mình, anh Nam Long nói:
    - Hiện nay Quân khu được Bộ tăng cường các đơn vị phòng không cấp trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ, gồm các loại pháo phòng không 100 ly, 57 ly, 37 ly và pháo mặt đất phòng thủ bờ biển 122 ly, 82 ly; các loại súng máy phòng không cho bộ binh và dân quân tự vệ. So với yêu cầu thì lực lượng pháo phòng không và pháo mặt đất còn quá mỏng. Tuy vậy, trong hơn hai mươi ngày đầu, khi không quân Mỹ đánh rộng ra trên nhiều địa bàn, bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ quân khu đã huy động tối đa vũ khí trang bị hiện có đánh.trả có hiệu quả, bắn rơi máy bay, bảo vệ được mục tiêu.
    Thiệt hại của bộ đội và nhân dân chưa có gì đáng kể. Bộ đội cũng như nhân dân hết sức tự tin, phấn khởi.
    Từ thực tế đó, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu thống nhất phát huy hiệu quả đạt được và khí thế sôi sục của lực lượng vũ trang, nhân dân quân khu, cần phải phổ biến nhanh những kinh nghiệm tốt, những hạn chế và khuyết điểm tới từng đơn vị; tổ chức ngay một số cụm phòng không, pháo ven biển tập trung hơn; đồng thời củng cố, xây dựng các loại trận địa phòng không, gồm trận địa kiên cố, trận địa dự bị, trận địa nghi binh. Đối với những trận địa phòng không dự bị tại trọng điểm, phải nguỵ trang chu đáo, sẵn sàng cơ động cao xạ từ nơi khác đến đánh địch khi cần thiết.
    Các đơn vị địa phương thực hiện nghiêm chỉ lệnh của Bộ Tư lệnh quân khu.
    Do xây dựng tốt cụm trận địa phông không ở Rú Nài (thị xã Hà Tĩnh), nên ngày 26 tháng 3 năm 1965, một đơn vị pháo phòng không đóng ở tỉnh Hà Tĩnh đã khéo kết hợp trận địa nghi binh và trận địa thật, hút máy bay địch đánh vào trận địa giả, tạo điều kiện cho trận địa thật tập trung hoả lực bắn rơi 2 máy bay ngay từ đợt đầu.
    Kinh nghiệm đánh máy bay địch của đơn vị pháo phòng không Rú Nài được phổ biến kịp thời cho các cụm trận địa phòng không bảo vệ thành phố Vinh và một số đơn vị khác bảo vệ trọng điểm giao thông ở Nghệ An, Hà Tĩnh.
    Tiếp đó, tôi bàn với anh Nam Long và được anh nhất trí cho thí điểm sử dụng một đại đội pháo cao xạ 37 ly bất ngờ cơ động ban ngày từ Vinh ra chi viện cho trận địa pháo bảo vệ cầu Cấm. Lực lượng cao xạ tăng cường đã đánh liên tục bốn đợt máy bay địch ném bom phá cầu, hạ một chiếc và bắn bị thương một chiếc khác. Cầu Cấm vẫn an toàn, nối liền tuyến giao thông huyết mạch.
    Khi máy bay địch hoạt động về đêm; không bị động, chúng tôi cho bố trí sáu đèn chiếu sáng của Liên Xô có công suất lớn ở ngay các cụm trận địa pháo để giúp pháo thủ bắt mục tiêu. Những đêm đầu khi máy bay địch đến đánh, đèn chiếu sáng được bật lên. Những pha đèn có công suất lớn quét giao nhau; theo đó, pháo thủ rất dễ phát hiện mục tiêu nhờ phản quang kim loại vỏ máy bay. Nhiều khẩu pháo hướng vào mục tiêu nhả đạn. Máy bay địch bị bất ngờ, hoảng hốt tháo chạy. Nhân dân xung quanh thành phố Vinh thấy đèn pha, đạn pháo của ta đuổi máy bay địch, sau chút ngỡ ngàng, lạ lẫm ban đầu không những không sợ mà còn reo hò phấn khởi. Thật là những đêm đầy không khí trận mạc trên tuyến lửa Khu 4.
    Sau hơn một tháng thử sức với không quân Mỹ, đánh ngày có, đánh đêm có, tôi cùng anh Nam Long thấy cần sơ kết rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng, nhiệm vụ mới chuẩn bị cho Quân khu uỷ họp ra nghị quyết và báo cáo lên Bộ. Ý định của chúng tôi là nêu phương hướng để cơ quan chuẩn bị. Trước hết căn cứ vào sự chỉ đạo ctỉa Quân uỷ, Bộ Quốc phòng, phân tích quy luật đánh phá bước đầu của địch, nhiệm vụ chủ yếu được giao, để rút kinh nghiệm trên ba mặt: đánh máy bay, đánh tàu chiến địch ở ven biển và chống địch khiêu khích ở dọc bờ bắc sông Bến Hải; chuẩn bị đối phó tình huống địch đổ bộ bất ngờ vào nam Quân khu; nhưng trọng tâm là đánh máy bay địch. Về đánh máy bay, phải phát động được mọi lực lượng, sử dụng được mọi loại vũ khí hiện có, đánh được mọi nơi, mọi lúc, hình thành thế trận phòng không nhân dân, lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lôp. Cụ thể là:
    Ở các trọng điểm, cần xây dựng trận địa chốt, có công sự kiên cố, công sự dự bị, trận địa nghi binh. Đồng thời kết hợp được các vòng, các tầng hoả lực phòng không ba thứ quân; bộ đội phòng không, bộ binh và dân quân tự vệ để bảo vệ được mục tiêu trọng điểm, cầu đường…
    Về diện, vừa bố trí trận địa sẵn ở các trọng điểm, chủ động cơ động được pháo cao xạ, vừa tổ chức dân quân, bộ binh tại chỗ đánh máy bay địch.
    Đối với lực lượng pháo phòng thủ bờ biển, cần nghiên cứu xây dựng thêm các trận địa tại các mỏm đồi, hoặc núi nhô ra biển, các đảo ven bỉển; trang bị pháo 82 ly cho các trận địa của dân quân.
    Củng cố các xã ven biển và khu vực bờ bắc sông Bến Hải theo hướng làng xã chiến đấu, lấy dân quân tự vệ làm nòng cốt, sẵn sàng đối phó với các hoạt động biệt kích, tập kích bất ngờ của Mỹ-nguỵ.
    Để thực hiện được đồng bộ những mặt công tác trên, một trong những nhân tố quyết định là tăng cường công tác tư tưởng nhằm đạt được mỗi thôn làng là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ trong thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại.
    Tranh thủ thời gian cơ quan chuẩn bị, tôi xuống kiểm tra một số cụm trận địa phòng không, pháo bờ biển và địa bàn bắc vĩ tuyến 17, kết hợp làm việc với các tỉnh, trao đổi trực tiếp với các đồng chí trong Tỉnh uỷ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Đặc khu uỷ Vĩnh Linh về chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quân khu; tôi còn muốn qua chuyến đi này có thêm nhiều điều thiết yếu chuẩn bị cho hội nghị Quân khu uỷ và hội nghị Hội đồng Quốc phòng quân khu sắp tới.
    Ở Nghệ An, sau khi làm việc với anh Võ Thúc Đồng - Bí thư và các anh trong Thường vụ tỉnh uỷ, tôi xuống kiểm tra trực tiếp cụm phòng không bảo vệ thành phố Vinh. Các cụm phòng không bố trí trên địa bàn thành phố trong những ngày qua, cả bộ đội cao xạ, bộ binh và dân quân đã huy động tối đa hoả lực đánh tốt, bắn rơi 5 máy bay, bảo vệ được Nhà máy Điện Vinh, phà Bến Thuỷ và cơ động chi viện đắc lực cho cụm phòng không bảo vệ cầu Cấm…
    Xuống thực địa, nhìn những hố bom sâu, nước xanh leo lẻo, những mảng tường đổ nát; xà, cột bê tông gãy gục, chỏng chơ bởi bom Mỹ, dấu tích kho cặn dầu ở bờ bắc Bến Thuỷ trúng bom cháy từ ngày Năm tháng Tám…, đủ cho tôi hình dung tới sự tàn khốc mà kẻ thù sẽ gieo xuống "Thành phố Đỏ" trong những ngày sắp tới.
    Vào Hà Tĩnh, tôi làm việc vđi các anh trong Thường vụ tỉnh uỷ. Bí thư tỉnh lúc này là anh Nguyễn Xuân Linh. Rời Văn phòng tỉnh uỷ, tôi đến kiểm tra cụm phòng không Rú Nài do đại đội 8 thuộc trung đoàn pháo phòng không chốt giữ. Mới đây, trong những trận chiến đấu cuối tháng 3, đơn vị đã có sáng kiến xây dựng trận địa giả nghi binh, tạo điều kiện cho trận địa thật đánh cớ hiệu quả, hạ được máy bay. Đây có thể được xem là trận mở đầu cách đánh phục kích của bộ đội phòng không Việt Nam anh hùng.
    Sau một đợt báo động, xe tôi đi thẳng vào trận địa. Đồng chí trung đoàn trưởng đón và hướng dẫn chúng tôi thăm hai trận địa nghi binh. Một nhóm gồm các bác thợ mộc xã Thạch Quý, Thạch Hà cùng một số cán bộ, chiến sĩ đang xây dựng trận địa nghi binh, gồm một đại đội pháo 37 ly giả làm bằng thân cây phi lao sơn đen.
    Trận địa có nguỵ trang nhưng rất khéo, để máy bay địch dễ phát hiện. Biết là đoàn cán bộ quân khu đến thăm, kiểm tra, một bác thợ nhanh nhảu hỏi tôi:
    - Thủ trưởng coi, mần như rứa có giống không?
    Tôi vui vẻ trả lời:
    - Trông xa, tôi thấy giống lắm. Cứ đà này các bác lập xưởng sản xuất pháo 37 ly được rồi đấy…
    Gió, nắng và tiếng cười ngập tràn trận địa. Một bác thợ khác nói thêm:
    - Báo cáo thủ trưởng, hôm trước máy bay Mỹ ném bom hỏng ba khẩu pháo của hai trận địa giả. Nhưng khi chúng say mồi, tập trung đánh vào trận địa giả, thì trận địa thật của ta đã rảnh tay xơi tái hai chiếc của chúng. Máy bay rơi ngay tại chỗ…
    Từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói… của những người thợ - những lão nông, những ngườilính nơi đây đều toát lên ý chí mãnh liệt, lòng tự tin, niềm lạc quan thanh thản lạ thường.
    Sau khi kiểm tra khắp lượt trận địa giả, trận địa thật cụm phòng không Rú Nài, thay mặt Quân khu uỷ, Bộ Tư lệnh quân khu, tôi biểu dương thành tích chiến đẩu của trung đoàn, cảm ơn nhân dân thị xã Hà Tĩnh đã cùng bộ đội lập chiến công bắn rơi máy bay Mỹ, bảo vệ cầu Phủ, giữ vững giao thông trên tuyến đường số 1 và mở đầu một cách đánh mới của lực lượng phòng không.
    bichly
    bichly
    Binh nhì
    Binh nhì

    Tổng số bài gửi : 16
    Join date : 03/04/2014

    Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên Empty Re: Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

    Bài gửi by bichly Sat May 31, 2014 12:06 am

    Về nhiệm vụ sắp tới, tôi nhắc nhở trung đoàn cần di chuyển thường xuyên trận địa thật và trận địa giả, đừng để địch "điểm huyệt" trận địa thật, vô hiệu hoá trận địa giả. Binh thư người xưa có dạy: Biết lừa địch để thắng địch thì thắng lợi lớn hơn, giá rẻ hơn.
    Rời cụm phòng không Rú Nài, niềm tin trong tôi như được tăng thêm bội phần. Sau gần hai giờ vượt qua những xóm nghèo hai huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, xe chúng tôi đến đỉnh Đèo Ngang. Nơi đây có một trận địa pháo 122 ly phòng thủ bờ biển. Thêm một lần qua Đèo Ngang, càng thấy được vị thế "thiên hiểm" của đỉnh đèo này. Thăm trận địa pháo, chúng tôi được đồng chí cụm trưởng báo eáo thời gian qua đã hai lần đơn vị "đánh cảnh cáo" tàu chiến của địch. Sẵn bản đồ tác chiến mang theo, tôi chỉ cho cán bộ đơn vị thấy năm cụm đảo ven biển, năm mỏm núi nhô ra biển từ bắc Nghệ An vào Vĩnh Lỉnh và nói rõ ý định sắp tới quân khu sẽ căn cứ khả năng hoả lực hiện có để điều chỉnh, bố trí thêm lực lượng những nơi có điều kiện, tạo tầm bắn của các trận địa giao nhau được thì sức mạnh hoả lực sẽ được nhân lên. Riêng với trận địa trên đỉnh Đèo Ngang, tôi gợi ý cần bố tn thêm lực lượng phòng không gồm pháo 87 ly, súng máy 12,7 ly kết hợp với dân quân bắn máy bay. Vì Đèo Ngang là một trọng điểm trên tuyến quốc lộ 1.
    Rời Đèo Ngang, tôi ngẫm về mấy câu thơ xưa của bà huyện Thanh Quan. Cũng là Đất nước, cũng là Tổ quốc, song không phải tâm trạng u hoài "nhớ nước", "thương nhà" mà bà Huyện từng gieo vào lòng lữ khách; choán ngự trong tôi lúc này là sục sôi, cháy bỏng những toan tính, giải pháp để đối phó và đánh bại kẻ thù đang từng ngày, từng giờ mang bom đạn đến gây tội ác ở mảnh đất này.
    Vào Quảng Bình, chúng tôi làm việc với anh Nguyễn Tư Thoan và một số anh trong Tỉnh uỷ, sau đó xuống thăm đội nữ pháo binh xã Ngư Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ - một phân đội pháo bờ biển được thành lập sớm, khi tàu chiến Mỹ lảng vảng t rên -Biển Đông. Về sau, phân đội này phát triển thành đại đội. Lúc chúng tôi đến có hai sĩ quan pháo binh đang hướng dẫn các nữ pháo thủ huấn luyệ n và củng cố công sự. Những nữ pháo thủ tuổi mười tám, đôi mươi đậm sức vóc con gái miền biển, xây ghép công sự, lao đạn pháo 82 ly nhẹ như chơi, hồn nhiên, tươi rói. Đúng là "Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu!".
    Tôi biểu dương và động viên các nữ pháo thủ cố gắng luyện hay, đánh giỏi, trừng trị kịp thời lũ cướp biển bảo vệ biển bờ quê hương, bảo vệ những con thuyền ngày đêm cần mẫn, nhọc nhằn bám biển. Tôi cũng lưu ý đơn vị phải coi trọng xây dựng các trận địa dự bị để khi cần phải di chuyển trận địa chính kịp thời, tránh tổn thất.
    Kẻ địch không ngờ được ở bãi biển Ngư Thuỷ với những triền cát dài ngút mắt, rừng phi lao đón gió biển mặn mòi lại ẩn giấu một trận địa pháo mà chủ nhân là những cô gái vùng biển chân chất hiền từ như hạt thóc, củ khoai, đang sẵn sàng giội bão lửa lên đầu chúng.
    Tạm biệt Ngư Thuỷ, mang theo dư vị của biển, chúng tôi vào Vĩnh Linh. Sau một ngày làm việc với anh Hồ Sĩ Thản và các anh trong Đặc khu uỷ, tôi vào trực tiếp nắm tình hình một số xã bờ bắc sông Bến Hải, kiểm tra các cụm pháo ven biển ở xã Vĩnh Mốc.
    Là tiền đồn của hậu phương lớn, nên các hoạt động biệt kích, phi pháo, ném bom bằng máy bay của hải lực - không lực Mỹ đã đẩy chiến tranh đến từng căn nhà, góc vườn của người dân Vĩnh Linh sớm hơn bất cứ vùng quê nào trên miền Bắc. Đồng thời, chiến tranh cũng tôi luyện cho mỗi người dân, người lính nơi đây tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu rất cao. Bằng ý chí, mồ hôi và bằng máu của mình, nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Linh từng bước xây dựng được hệ thống hầm hào, địa đạo rất quy mô và kiên cố. Hệ thống địa đạo gồm: trạm cấp cứu, lớp học, hội trường, kho vũ khí, kho từng gia đình. Tất cả được làm rất công phu. Các gia đình đều có công sự, hầm chữ A chắc chắn. Địa đạo, công sự nối với nhau bằng những giao thông hào từ xã này qua xã khác. Đặc biệt ở Vĩnh Linh các vườn cây của gia đình nối tiếp nhau tạo thành những "vườn rừng" um tùm như một màn nguỵ trang khá lý tưởng mà thiên nhiên ban tặng. Ban ngày xe con chạy trong đường làng, dưới những tán cây "vườn rừng", máy bay địch khó phát hiện.
    Ba ngày làm việc ở Vĩnh Linh, tôi như được tắm mình trong không khí sôi động, toàn dân khẩn trương sẵn sàng đánh địch bất cứ mọi nơi, mọi lúc.
    Qua làm việc với địa phương, các tỉnh đều thống nhất cần phát động mạnh hơn phong trào dân quân tự vệ dùng súng bộ binh bắn máy bay bay thấp; tăng thêm súng máy cao xạ 14,5 và 12,7 ly cho các xã trọng điểm; diễn tập, kiểm tra thường xuyên các cơ sở về hoạt động chống địch tập kích, đổ bộ ven biển; tổ chức phòng tránh tết, hạn chế thiệt hại, thương vong trong nhân dân. Riêng Quảng Bình đề nghị Quân khu trang bị thêm pháo 82 ly cho dân quân một số xã ven biển. Vĩnh Linh đề nghị tăng vũ khí hoả lực mới cho các xã dọc theo bờ bắc sông Bến Hải và đề nghị các địa phương trong Quân khu - chủ yếu là Nghệ An tiếp nhận số người già và các cháu nhỏ ra sơ tán…
    Kết thúc một chuyến công tác ngắn ngày nhưng hiệu quả cao.
    Ngoài những cứ liệu cần thiết làm cơ sở để Quân khu uỷ ra nghị quyết trong kỳ họp tới, thì hình ảnh làm trào dâng trong tôi niềm cảm phục, tự hào là những người dân quê tôi lam lũ, chân chất, luôn gồng mình lên trước những thách đố nghiệt ngã của thiên nhiên, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt thóc, củ khoai, đang bình tĩnh, tự tin chấp nhận cuộc đối đầu với một siêu cường đế quốc chủ nghĩa, có một nền công nghệ quân sự với bao phương tiện huỷ diệt hiện đại…
    Niềm tin trong tôi về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, cũng được nhân lên bội phần.
    Về lại cơ quan quân khu, có thể do lúc này đang cuối xuân - đầu hạ, nóng lạnh thất thường; có thể do thay đổi địa thế công tác, bệnh viêm a-mi-đan mạn tính của tôi lại có cơ hoành hành. Theo lời khuyên của bác sĩ quân y, tôi quyết định trở ra Hà Nội, dành bốn ngày vào Quân y viện 108 cắt a-mi-đan.
    Thời gian và công việc hối thúc. Sau khi ra viện, tranh thủ thăm gia đình một ngày là tôi vào luôn quân khu. Bởi cuộc họp Quân khu uỷ tới, tôi không thể vắng mặt.
    Hội nghị Quân khu uỷ mở rộng tiến hành trong hai ngày 7 và 8 tháng 5 năm 1965. Dự họp ngoài các đồng chí trong Quân khu uỷ còn có các đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Bí thư Đặc khu uỷ Vĩnh Linh. Bầu không khí sôi nổi nhiệt tình của hội nghị như được nung thêm bởi nắng hè, gió tây ở "thung lũng" Nam Thanh này.
    Hội nghị nhất trí đánh giá của Bộ Tư lệnh quân khu: Qua gần ba tháng chiến đấu liên tục, quyết liệt, lực lượng phòng không và pháo mặt đất ven biển, bộ binh, dân quân tự vệ và nhân dân trong toàn quân khu đã đánh giỏi, bắn rơi nhiều máy bay, bắn trọng thương một số tàu chiến của địch. Các địa phương tổ chức cho nhân dân phòng tránh, phục vụ chiến đấu tốt; đặc biệt là công tác bảo vệ và phục vụ giao thông vận tải đạt hiệu quả cao. Quân khu uỷ nhất trí biểu dương cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân quân khu về những thành tích đã đạt được.

    Sponsored content

    Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên Empty Re: Đường xuyên Trường Sơn - Tác giả: Đồng Sỹ Nguyên

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sat Apr 27, 2024 8:49 pm

      -------- quảng cáo
      Tắt Quảng Cáo [X]
      Tắt Quảng Cáo [X]