Mở đầu cho đợt hoạt động Hè, đêm 31 tháng 5 và ngày 1 tháng 6 năm 1965, tiểu đoàn 952 đã bất ngờ nổ súng tiến công tiêu diệt địch ở quận ly Lệ Thanh.
I. TÌNH HÌNH CHUNG
A. Địa hình thời tiết
Quận ly Lệ Thanh (còn có tên gọi Lệ Thanh 1, Thanh An), nằm ở phía tây đoạn đường nối tỉnh số 2 nối quốc lộ 19 và đường 509 (còn gọi là đường 5a) cách ngã ba Phước Thiện khoảng 3km về phía bắc, thuộc huyện 4 (Chư Pả), nay thuộc xã Ia Kla, huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai.
Toàn bộ quận lỵ rộng khoảng 27 ha, nằm trên một dải đồi có địa hình tương đối bằng phẳng, bình độ gần 400m, thuộc một thung lũng nhỏ. Cách phía bắc và phía tây từ 2km trở ra là các dãy núi kéo dài của dãy núi Chư Bok, Chư Dalban rừng cây rậm rạp. Phía động và phía nam từ 2km trở ra là rừng non, cây thấp. Ta có thể lợi dụng để tập kết lực lượng, ém quân. Nhưng đây cũng là nơi các toán thám báo địch thường xuyên hoạt động.
Bao quanh quận ly Lệ Thanh là những lô cây cao su mới trồng, cao khoảng 0,4m và nhà cửa của chín dinh điền người Kinh bị cưỡng ép di cư vào Nam và của ba ấp chiến lược người Thượng, bị địch dồn từ các bản quanh vùng. Càng gần hàng rào quận lỵ, cây càng nhỏ, nhà cửa dày hơn. Do địa hình trống trải và nhân dân bị địch khống chế, nên ban ngày tiền nhập rất khó khăn. Ta chỉ có thể bí mật tiếp cận đồn địch vào ban đêm.
Do quận ly nằm trong một thung lũng hẹp, đồi núi bao quanh, nên đường giao thông rất thưa thớt. Đường nội tỉnh số 2 chạy từ ngã ba Phục Thiện nối đường 19 ở phía nam với đường 509 và đến Plei Giăng ở phía bắc, địch có thể cơ động lực lượng bộ binh cơ giới ứng cứu cho Lệ Thanh. Trong các dinh điền, những lô cao su xung quanh Lệ Thanh có nhiều đường mòn, đường liên ấp, ban đêm có thể đi tắt qua các lô cao su, dễ dàng, thuận lợi.
Trong khu vực không có sông, chỉ có con suối Ia Kren chảy từ đông sang tây thung lũng, đầu mùa mưa nước chưa dâng cao, bộ binh có thể vượt qua dễ dàng. Do chuyển mùa, nên cả ngày và đêm trời nhiều mây, đêm tối thuận tiện cho ta giữ bí mật hành động.
Tóm lại, quận lỵ Lệ Thanh nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, trống trải, bao quanh có các dinh điền và ấp chiến lược do lực lượng bảo an canh giữ, ta rất khó tiếp cận ban ngày. Riêng phía tây và nam nhà cửa thưa thớt, lợi dụng đêm tối ta có thể bí mật chiếm lĩnh và xây dựng trận địa tiến công sát hàng rào, đưa hỏa lực bắn thẳng vào gần mục tiêu, ta có thể lui quân nhanh về khu tập kết bí mật trong rừng ngay trong đêm.
B. Tình hình địch
Quận ly Lệ Thanh là nơi đóng giữ của cơ quan chính trị, quân sự của quận. Cùng với hai trung tâm biệt kích Đức Cơ và Plei Giăng tạo thành tấm lá chắn phía tây của quân khu 2 QL VNCH, trấn giữ và khống chế một vùng đất đai, dân cư rộng lớn ở phía tây Gia Lai từ thị xã Plei Ku đến biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia. Đồng thời đấy cũng là một căn cứ tập trung lực lượng trong kế hoạch thu hẹp dần tuyến chiếm đóng của địch, sau thất bại mùa xuân năm 1965 ở Tây Nguyên.
Tại Lệ Thanh 1, lực lượng địch gồm có: tên chi khu trưởng, kiêm quận trưởng, tên chi khu phó chỉ huy dân vệ, ba cố vấn Mỹ (một thiếu tá, hai thượng sĩ) đại đội bảo an số 142 có 98 tên, một trung đội dân vệ, một trung đội thám báo, bốn tên mật thám… vũ khí trang bị có bốn đại liên, sáu trung liên, một cối 81mm, một cối 61mm còn lại là tiểu liên, súng trường, các bin, súng ngắn, súng săn, lựu đạn, mìn và sáu xe ô tô, bốn kho đạn…
Khu chỉ huy và cố vấn ở giữa (nhà số 1, 4) nhà lính ở hai bên phía bắc và phía nam nhà số 2, 3) trận địa cối và hỏa lực ở phía đông và trên các hướng, kho xăng và nhà xe ở phía nam, hội trường ở phía tây bắc. Bốn góc đồn (đông, nam, tây, bắc) có bốn lô cốt lớn bằng bê tông cốt sắt, hình lục giác, mỗi cạnh từ 2-3m, trên nóc có gắn đại liên, trung liên, chòi canh, lính gác suốt ngày đêm.
Ngoài hàng rào phân khu và hệ thống công sự bên trong, địch còn xây dựng được một hệ thống vật cản chiến hào bên ngoài khá liên hoàn bao gồm: bốn hàng rào mái nhà có mìn xen kẽ ở vòng trong, hai hàng rào đơn có chiến hào ở giữa (bố trí cách hàng rào bên trong 100m) ở phía tây và nam cứ điểm.
Riêng đồn Lệ Thanh 2 (cách Lệ Thanh 1 khoảng 1km về phía nam) có một trung đội dân vệ canh giữ, trang bị hai trung liên và tiểu liên, súng trường… có công sự bao quanh.
Nhằm ngăn chặn sự đột nhập của ta và bảo vệ từ xa, địch tổ chức bố trí từ một trung đội đến một đại đội dân vệ trang bị súng máy, các bin, súng săn, phóng lựu trong chín dinh điền và ba ấp chiến lược bao quanh quận ly. Riêng ấp chiến lược làng Xèng có một trung đội thanh niên chiến đấu. Lực lượng dân vệ thường xuyên tuần tra, canh gác trong các ấp làm lực lượng bảo vệ vòng ngoài. Nhưng cũng vì thế, bọn lính canh trong căn cứ ỉ lại, ban đêm canh gác không nghiêm.
Cùng với việc duy trì hệ thống tháp canh, bắn pháo sáng thành lệ, địch thường xuyên tung các toán thám báo sục sạo vào các dinh điền, nống ra vùng tranh chấp tìm dấu vết để phát hiện sự chuẩn bị của ta, rồi gọi máy bay, pháo binh hoặc bộ binh đánh phá ngăn chặn. Nếu có điều kiện, chúng bắt các chiến sĩ đi lẻ để khai thác tin tức. Do chưa bị đánh đau, ỷ lại vào bọn dân vệ, nên canh gác trong cứ điểm vào ban đêm địch rất chủ quan. Từ tối đến khuya lính địch thường tụ tập chơi cờ bạc, ăn uống, hút xách, rượu chè… Nếu bị ta tiến công, chúng dựa vào công sự, vật cản dùng hỏa lực ngăn chặn, chống trả để gọi viện binh, máy bay và pháo binh chi viện. Khi có nguy cơ bị tiêu diệt, chúng tháo chạy ra các đồn điền xung quanh, trà trộn trong dân hoặc chui vào hầm ngầm gọi pháo, máy bay đánh trùm lên cả căn cứ. Nhưng do nằm trong thung lũng hẹp, chỉ có một con đường chạy qua, nên lực lượng cứu viện từ Đức Cơ lên hoặc từ Plei Giăng xuống dễ bị phục kích đánh chặn. Nếu ta tiến công ban đêm, thì lực lượng cứu viện địch không dám đến.
Tóm lại, lực lượng địch ở Lệ Thanh có công sự vật cản tương đối liên hoàn, hỏa lực bố trí sẵn, có vành đai dân vệ bảo vệ vòng ngoài. Nhưng sau đợt thất bại đầu xuân phải co cụm dần, nên tinh thần địch sa sút. Nếu ta tiến công vào ban đêm chúng sẽ bị bất ngờ, không kịp ứng cứu.
C. Tình hình ta
Tiểu đoàn 952 thuộc Mặt trận Tây Nguyên, là đơn vị mới được thành lập đầu năm 1965, trên cơ sở sáp nhập tiểu đoàn 407 đặc công với tiểu đoàn 545, gồm ba đại đội bộ binh (1, 2, 3) và một số phân đội hỏa lực bảo đảm, quân số là 240 người. Vũ khí trang bị có: bốn cối 81mm, bốn ĐKZ 57mm, bốn cối 60mm, bốn đại liên còn lại là trung liên, B40, AK, CKC, lựu đạn, bộc phá, máy hữu tuyến điện và vô tuyến điện, súng pháo hiệu, kéo cắt rào…
Tiểu đoàn đặc công 407 thành lập tháng 5 năm 1961 trên cơ sở hai đại đội còn lại của tiểu đoàn đặc công 30 Quân khu 4; vào chiến trường Tây Nguyên cuối 1961, đánh nhiều trận nổi tiếng ở Plei Mơrông, Plei Krông, Đak Pét… Đến đầu năm 1965 chỉ còn lại khoảng 100 người, chủ yếu là cán bộ. Tiểu đoàn 545 là đơn vị thuộc Quân khu Tây Bắc mới hành quân vào chiến trường cuối năm 1964, chiến sĩ đa số chưa trải qua chiến đấu.
Đầu năm 1965, tiểu đoàn 952 đã phân tán thành từng đại đội, đánh nhiều trận, diệt được từ hai tiểu đội đến một trung đội địch, nhưng cũng có trận diệt địch chưa gọn như trận Đak Mót… Mặc dù cán bộ chiến sĩ có quyết tâm cao, chiến đấu dũng cảm, nhưng là đơn vị đặc công và bộ binh ghép lại, nên có hiện tượng cán bộ thiếu lòng tin vào chiến sĩ. Cán bộ thuần thục cách đánh đặc công, nhưng chưa quen sử dụng hỏa lực, lực lượng tập trung quy mô tiểu đoàn tăng cường; chiến sĩ mới chưa quen địa hình, thời tiết khí hậu và đối tượng tác chiến. Đứng trước những vấn đề đó, đảng ủy và chỉ huy tiểu đoàn đã tích cực tìm ra biện pháp để khắc phục trước khi hành quân đánh vào quận lỵ Lệ Thanh.
Để tạo điều kiện cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ Bộ tư lệnh Mặt trận tăng cường hỏa lực ĐKZ, súng cối và cử cán bộ xuống trực tiếp chỉ đạo giúp đỡ Đảng bộ và chính quyền địa phương huy động một số dân công vận tải và cử hai tiểu đội du kích bảo vệ đường hành quân của tiểu đoàn.
Nhân dân trong chín dinh điền và ba ấp chiến lược xung quanh quận ly Lệ Thanh do địch kiểm soát khống chế, tuyên truyền lừa bịp, ta chưa xây dựng được cơ sở, nên việc trinh sát nắm địch gặp rất nhiều khó khăn, thời gian điều tra nghiên cứu kéo dài.
Tóm lại, khi bước vào chiến đấu, tiểu đoàn 952 có quân số, vũ khí trang bị đầy đủ, cán bộ chiến sĩ có quyết tâm cao, được củng cố huấn luyện bổ sung chu đáo, được cấp trên và địa phương tăng cường giúp đỡ, có thời gian chuẩn bị tương đối dài… Mặc dù còn một số khó khăn, nhưng đơn vị có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh thắng trận đầu, mở màn đợt hoạt động Hè năm 1965 cho toàn Mặt trận.
I. TÌNH HÌNH CHUNG
A. Địa hình thời tiết
Quận ly Lệ Thanh (còn có tên gọi Lệ Thanh 1, Thanh An), nằm ở phía tây đoạn đường nối tỉnh số 2 nối quốc lộ 19 và đường 509 (còn gọi là đường 5a) cách ngã ba Phước Thiện khoảng 3km về phía bắc, thuộc huyện 4 (Chư Pả), nay thuộc xã Ia Kla, huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai.
Toàn bộ quận lỵ rộng khoảng 27 ha, nằm trên một dải đồi có địa hình tương đối bằng phẳng, bình độ gần 400m, thuộc một thung lũng nhỏ. Cách phía bắc và phía tây từ 2km trở ra là các dãy núi kéo dài của dãy núi Chư Bok, Chư Dalban rừng cây rậm rạp. Phía động và phía nam từ 2km trở ra là rừng non, cây thấp. Ta có thể lợi dụng để tập kết lực lượng, ém quân. Nhưng đây cũng là nơi các toán thám báo địch thường xuyên hoạt động.
Bao quanh quận ly Lệ Thanh là những lô cây cao su mới trồng, cao khoảng 0,4m và nhà cửa của chín dinh điền người Kinh bị cưỡng ép di cư vào Nam và của ba ấp chiến lược người Thượng, bị địch dồn từ các bản quanh vùng. Càng gần hàng rào quận lỵ, cây càng nhỏ, nhà cửa dày hơn. Do địa hình trống trải và nhân dân bị địch khống chế, nên ban ngày tiền nhập rất khó khăn. Ta chỉ có thể bí mật tiếp cận đồn địch vào ban đêm.
Do quận ly nằm trong một thung lũng hẹp, đồi núi bao quanh, nên đường giao thông rất thưa thớt. Đường nội tỉnh số 2 chạy từ ngã ba Phục Thiện nối đường 19 ở phía nam với đường 509 và đến Plei Giăng ở phía bắc, địch có thể cơ động lực lượng bộ binh cơ giới ứng cứu cho Lệ Thanh. Trong các dinh điền, những lô cao su xung quanh Lệ Thanh có nhiều đường mòn, đường liên ấp, ban đêm có thể đi tắt qua các lô cao su, dễ dàng, thuận lợi.
Trong khu vực không có sông, chỉ có con suối Ia Kren chảy từ đông sang tây thung lũng, đầu mùa mưa nước chưa dâng cao, bộ binh có thể vượt qua dễ dàng. Do chuyển mùa, nên cả ngày và đêm trời nhiều mây, đêm tối thuận tiện cho ta giữ bí mật hành động.
Tóm lại, quận lỵ Lệ Thanh nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, trống trải, bao quanh có các dinh điền và ấp chiến lược do lực lượng bảo an canh giữ, ta rất khó tiếp cận ban ngày. Riêng phía tây và nam nhà cửa thưa thớt, lợi dụng đêm tối ta có thể bí mật chiếm lĩnh và xây dựng trận địa tiến công sát hàng rào, đưa hỏa lực bắn thẳng vào gần mục tiêu, ta có thể lui quân nhanh về khu tập kết bí mật trong rừng ngay trong đêm.
B. Tình hình địch
Quận ly Lệ Thanh là nơi đóng giữ của cơ quan chính trị, quân sự của quận. Cùng với hai trung tâm biệt kích Đức Cơ và Plei Giăng tạo thành tấm lá chắn phía tây của quân khu 2 QL VNCH, trấn giữ và khống chế một vùng đất đai, dân cư rộng lớn ở phía tây Gia Lai từ thị xã Plei Ku đến biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia. Đồng thời đấy cũng là một căn cứ tập trung lực lượng trong kế hoạch thu hẹp dần tuyến chiếm đóng của địch, sau thất bại mùa xuân năm 1965 ở Tây Nguyên.
Tại Lệ Thanh 1, lực lượng địch gồm có: tên chi khu trưởng, kiêm quận trưởng, tên chi khu phó chỉ huy dân vệ, ba cố vấn Mỹ (một thiếu tá, hai thượng sĩ) đại đội bảo an số 142 có 98 tên, một trung đội dân vệ, một trung đội thám báo, bốn tên mật thám… vũ khí trang bị có bốn đại liên, sáu trung liên, một cối 81mm, một cối 61mm còn lại là tiểu liên, súng trường, các bin, súng ngắn, súng săn, lựu đạn, mìn và sáu xe ô tô, bốn kho đạn…
Khu chỉ huy và cố vấn ở giữa (nhà số 1, 4) nhà lính ở hai bên phía bắc và phía nam nhà số 2, 3) trận địa cối và hỏa lực ở phía đông và trên các hướng, kho xăng và nhà xe ở phía nam, hội trường ở phía tây bắc. Bốn góc đồn (đông, nam, tây, bắc) có bốn lô cốt lớn bằng bê tông cốt sắt, hình lục giác, mỗi cạnh từ 2-3m, trên nóc có gắn đại liên, trung liên, chòi canh, lính gác suốt ngày đêm.
Ngoài hàng rào phân khu và hệ thống công sự bên trong, địch còn xây dựng được một hệ thống vật cản chiến hào bên ngoài khá liên hoàn bao gồm: bốn hàng rào mái nhà có mìn xen kẽ ở vòng trong, hai hàng rào đơn có chiến hào ở giữa (bố trí cách hàng rào bên trong 100m) ở phía tây và nam cứ điểm.
Riêng đồn Lệ Thanh 2 (cách Lệ Thanh 1 khoảng 1km về phía nam) có một trung đội dân vệ canh giữ, trang bị hai trung liên và tiểu liên, súng trường… có công sự bao quanh.
Nhằm ngăn chặn sự đột nhập của ta và bảo vệ từ xa, địch tổ chức bố trí từ một trung đội đến một đại đội dân vệ trang bị súng máy, các bin, súng săn, phóng lựu trong chín dinh điền và ba ấp chiến lược bao quanh quận ly. Riêng ấp chiến lược làng Xèng có một trung đội thanh niên chiến đấu. Lực lượng dân vệ thường xuyên tuần tra, canh gác trong các ấp làm lực lượng bảo vệ vòng ngoài. Nhưng cũng vì thế, bọn lính canh trong căn cứ ỉ lại, ban đêm canh gác không nghiêm.
Cùng với việc duy trì hệ thống tháp canh, bắn pháo sáng thành lệ, địch thường xuyên tung các toán thám báo sục sạo vào các dinh điền, nống ra vùng tranh chấp tìm dấu vết để phát hiện sự chuẩn bị của ta, rồi gọi máy bay, pháo binh hoặc bộ binh đánh phá ngăn chặn. Nếu có điều kiện, chúng bắt các chiến sĩ đi lẻ để khai thác tin tức. Do chưa bị đánh đau, ỷ lại vào bọn dân vệ, nên canh gác trong cứ điểm vào ban đêm địch rất chủ quan. Từ tối đến khuya lính địch thường tụ tập chơi cờ bạc, ăn uống, hút xách, rượu chè… Nếu bị ta tiến công, chúng dựa vào công sự, vật cản dùng hỏa lực ngăn chặn, chống trả để gọi viện binh, máy bay và pháo binh chi viện. Khi có nguy cơ bị tiêu diệt, chúng tháo chạy ra các đồn điền xung quanh, trà trộn trong dân hoặc chui vào hầm ngầm gọi pháo, máy bay đánh trùm lên cả căn cứ. Nhưng do nằm trong thung lũng hẹp, chỉ có một con đường chạy qua, nên lực lượng cứu viện từ Đức Cơ lên hoặc từ Plei Giăng xuống dễ bị phục kích đánh chặn. Nếu ta tiến công ban đêm, thì lực lượng cứu viện địch không dám đến.
Tóm lại, lực lượng địch ở Lệ Thanh có công sự vật cản tương đối liên hoàn, hỏa lực bố trí sẵn, có vành đai dân vệ bảo vệ vòng ngoài. Nhưng sau đợt thất bại đầu xuân phải co cụm dần, nên tinh thần địch sa sút. Nếu ta tiến công vào ban đêm chúng sẽ bị bất ngờ, không kịp ứng cứu.
C. Tình hình ta
Tiểu đoàn 952 thuộc Mặt trận Tây Nguyên, là đơn vị mới được thành lập đầu năm 1965, trên cơ sở sáp nhập tiểu đoàn 407 đặc công với tiểu đoàn 545, gồm ba đại đội bộ binh (1, 2, 3) và một số phân đội hỏa lực bảo đảm, quân số là 240 người. Vũ khí trang bị có: bốn cối 81mm, bốn ĐKZ 57mm, bốn cối 60mm, bốn đại liên còn lại là trung liên, B40, AK, CKC, lựu đạn, bộc phá, máy hữu tuyến điện và vô tuyến điện, súng pháo hiệu, kéo cắt rào…
Tiểu đoàn đặc công 407 thành lập tháng 5 năm 1961 trên cơ sở hai đại đội còn lại của tiểu đoàn đặc công 30 Quân khu 4; vào chiến trường Tây Nguyên cuối 1961, đánh nhiều trận nổi tiếng ở Plei Mơrông, Plei Krông, Đak Pét… Đến đầu năm 1965 chỉ còn lại khoảng 100 người, chủ yếu là cán bộ. Tiểu đoàn 545 là đơn vị thuộc Quân khu Tây Bắc mới hành quân vào chiến trường cuối năm 1964, chiến sĩ đa số chưa trải qua chiến đấu.
Đầu năm 1965, tiểu đoàn 952 đã phân tán thành từng đại đội, đánh nhiều trận, diệt được từ hai tiểu đội đến một trung đội địch, nhưng cũng có trận diệt địch chưa gọn như trận Đak Mót… Mặc dù cán bộ chiến sĩ có quyết tâm cao, chiến đấu dũng cảm, nhưng là đơn vị đặc công và bộ binh ghép lại, nên có hiện tượng cán bộ thiếu lòng tin vào chiến sĩ. Cán bộ thuần thục cách đánh đặc công, nhưng chưa quen sử dụng hỏa lực, lực lượng tập trung quy mô tiểu đoàn tăng cường; chiến sĩ mới chưa quen địa hình, thời tiết khí hậu và đối tượng tác chiến. Đứng trước những vấn đề đó, đảng ủy và chỉ huy tiểu đoàn đã tích cực tìm ra biện pháp để khắc phục trước khi hành quân đánh vào quận lỵ Lệ Thanh.
Để tạo điều kiện cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ Bộ tư lệnh Mặt trận tăng cường hỏa lực ĐKZ, súng cối và cử cán bộ xuống trực tiếp chỉ đạo giúp đỡ Đảng bộ và chính quyền địa phương huy động một số dân công vận tải và cử hai tiểu đội du kích bảo vệ đường hành quân của tiểu đoàn.
Nhân dân trong chín dinh điền và ba ấp chiến lược xung quanh quận ly Lệ Thanh do địch kiểm soát khống chế, tuyên truyền lừa bịp, ta chưa xây dựng được cơ sở, nên việc trinh sát nắm địch gặp rất nhiều khó khăn, thời gian điều tra nghiên cứu kéo dài.
Tóm lại, khi bước vào chiến đấu, tiểu đoàn 952 có quân số, vũ khí trang bị đầy đủ, cán bộ chiến sĩ có quyết tâm cao, được củng cố huấn luyện bổ sung chu đáo, được cấp trên và địa phương tăng cường giúp đỡ, có thời gian chuẩn bị tương đối dài… Mặc dù còn một số khó khăn, nhưng đơn vị có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh thắng trận đầu, mở màn đợt hoạt động Hè năm 1965 cho toàn Mặt trận.